Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2018

Bangarapet – Wikipedia tiếng Việt


Bangarapet

Bangarapet trên bản đồ Thế giới
Bangarapet

Bangarapet

Quốc gia
Ấn Độ Ấn Độ
Bang
Karnataka
Độ cao
843 m (2,766 ft)
Dân số (2001)
 • Tổng cộng
38,684
Múi giờ
IST (UTC+05:30)
Mã bưu chính
563114 sửa dữ liệu
Mã điện thoại
8153 sửa dữ liệu

Bangarapet là một thị xã của quận Kolar thuộc bang Karnataka, Ấn Độ.



Bangarapet có vị trí 12°58′B 78°12′Đ / 12,97°B 78,2°Đ / 12.97; 78.2[1] Nó có độ cao trung bình là 843 mét (2765 foot).



Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ[2], Bangarapet có dân số 38.684 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Bangarapet có tỷ lệ 72% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 77%, và tỷ lệ cho phái nữ là 67%. Tại Bangarapet, 12% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.




  1. ^ “Bangarapet”. Falling Rain Genomics, Inc. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008. 

  2. ^ “Census of India 2001: Data from the 2001 Census, including cities, villages and towns. (Provisional)”. Census Commission of India. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007. 








Badnawar – Wikipedia tiếng Việt


Badnawar

Badnawar trên bản đồ Thế giới
Badnawar

Badnawar

Quốc gia
Ấn Độ Ấn Độ
Bang
Madhya Pradesh
Độ cao
506 m (1,660 ft)
Dân số (2001)
 • Tổng cộng
17,746
Múi giờ
IST (UTC+05:30)
Mã bưu chính
454660 sửa dữ liệu
Mã điện thoại
07295 sửa dữ liệu

Badnawar là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Dhar thuộc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ.



Badnawar có vị trí 23°01′B 75°13′Đ / 23,02°B 75,22°Đ / 23.02; 75.22[1] Nó có độ cao trung bình là 506 mét (1660 foot).



Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ[2], Badnawar có dân số 17.746 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Badnawar có tỷ lệ 64% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 72%, và tỷ lệ cho phái nữ là 56%. Tại Badnawar, 16% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.




  1. ^ “Badnawar”. Falling Rain Genomics, Inc. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008. 

  2. ^ “Census of India 2001: Data from the 2001 Census, including cities, villages and towns. (Provisional)”. Census Commission of India. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007. 








Sing Buri (tỉnh) – Wikipedia tiếng Việt


14°53′33″B 100°24′2″Đ / 14,8925°B 100,40056°Đ / 14.89250; 100.40056


Sing Buri
สิงห์บุรี

Hiệu kỳ của Sing Buri
Hiệu kỳ
Ấn chương chính thức của Sing Buri
Ấn chương

Khẩu hiệu: ถิ่นวีระชนคนกล้า คู่หล้าพระนอน นามกระฉ่อนช่อนแม่ลา เทศกาลกิจปลาประจำปี

Thailand Sing Buri locator map.svg

Sing Buri trên bản đồ Thế giới
Sing Buri

Sing Buri

Quốc gia
Cờ Thái Lan Thái Lan
Thủ phủ
Sing Buri sửa dữ liệu
Chính quyền
 • Tỉnh trưởng
Praphat Bunyindi
Diện tích
 • Tổng cộng
822,5 km2 (3,176 mi2)
Dân số (2000)
 • Tổng cộng
232,766
 • Mật độ
283/km2 (730/mi2)
Múi giờ
+7 (UTC+7)
Mã bưu chính
16
Mã ISO 3166
TH-17 sửa dữ liệu
Trang web
http://www.singburi.go.th/

Sing Buri (Thai สิงห์บุรี) là một tỉnh ở miền Trung của Thái Lan.Sing Buri. Các tỉnh giáp ranh (từ phía Bắc theo chiều kim đồng hồ): Nakhon Sawan, Lop Buri, Ang Thong, Suphan Buri và Chai Nat.






Ariyalur – Wikipedia tiếng Việt


Ariyalur

GangaiKonda Cholapuram(Front View).JPG

Ariyalur trên bản đồ Thế giới
Ariyalur

Ariyalur

Quốc gia
Ấn Độ Ấn Độ
Bang
Tamil Nadu
Độ cao
76 m (249 ft)
Dân số (2001)
 • Tổng cộng
27,827
Múi giờ
IST (UTC+05:30)
Mã bưu chính
621704 sửa dữ liệu
Mã điện thoại
4329 sửa dữ liệu

Ariyalur là một thị xã panchayat của quận Ariyalur thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ.



Ariyalur có vị trí 11°08′B 79°05′Đ / 11,13°B 79,08°Đ / 11.13; 79.08[1] Nó có độ cao trung bình là 76 mét (249 feet).



Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ[2], Ariyalur có dân số 27.827 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Ariyalur có tỷ lệ 73% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 79%, và tỷ lệ cho phái nữ là 66%. Tại Ariyalur, 12% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.




  1. ^ “Ariyalur”. Falling Rain Genomics, Inc. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2008. 

  2. ^ “Census of India 2001: Data from the 2001 Census, including cities, villages and towns. (Provisional)”. Census Commission of India. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007. 








Ambasamudram – Wikipedia tiếng Việt


Ambasamudram

Ambasamudram trên bản đồ Thế giới
Ambasamudram

Ambasamudram

Quốc gia
Ấn Độ Ấn Độ
Bang
Tamil Nadu
Độ cao
76 m (249 ft)
Dân số (2001)
 • Tổng cộng
32,681
Múi giờ
IST (UTC+05:30)
Mã bưu chính
627401 sửa dữ liệu
Mã điện thoại
4634 sửa dữ liệu

Ambasamudram là một thị xã panchayat của quận Tirunelveli thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ.



Ambasamudram có vị trí 8°42′B 77°28′Đ / 8,7°B 77,47°Đ / 8.7; 77.47[1] Nó có độ cao trung bình là 76 mét (249 feet).



Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ[2], Ambasamudram có dân số 32.681 người. Phái nam chiếm 49% tổng số dân và phái nữ chiếm 51%. Ambasamudram có tỷ lệ 76% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 82%, và tỷ lệ cho phái nữ là 71%. Tại Ambasamudram, 9% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.




  1. ^ “Ambasamudram”. Falling Rain Genomics, Inc. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2008. 

  2. ^ “Census of India 2001: Data from the 2001 Census, including cities, villages and towns. (Provisional)”. Census Commission of India. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2007. 








Cầu Øresund – Wikipedia tiếng Việt



Cầu Oresund nối vào đảo nhân tạo Peberholm, ảnh chụp từ trên không

Hình chụp từ vệ tinh nhân tạo


Cầu Øresund, Öresund hay Oresund (tiếng Đan Mạch: Øresundsbroen; tiếng Thụy Điển: Öresundsbron) là một trong ba khâu nối giao thông cố định (fixed link) từ đảo Amager (Đan Mạch) qua Eo biển Oresund tới Malmö (nam Thụy Điển). Hai khâu kia là đảo nhân tạo Peberholm và 4 đường hầm từ Amager (Đan Mạch) tới đảo nhân tạo này. Tổng chiều dài của ba khâu này là 15,9 km. Vì đường nối giao thông cố định này gồm ba khâu, nên Đan Mạch thường dùng từ Øresundsforbindelsen và Thụy Điển dùng từ Öresundsförbindelsen.

Cùng với cầu Lillebælt và cầu Storebælt, cầu Oresund đã nối giao thông cố định giữa vùng tây lục địa châu Âu với vùng bắc bán đảo Scandinavia, cuối cùng nối liền mọi phần đất của Liên minh châu Âu, ngoại trừ Ireland, Malta và Kypros cùng các đảo nằm ngoài lục địa.





Cầu Oresund được xây dựng trên các cột và một nhịp chính bằng cột treo dây néo chéo (cable-stayed bridge). Nhịp treo này dài 490 m - treo trên 4 cột cao 203,5 mét trên mực nước biển bằng 80 dây cáp treo mỗi cặp cách nhau 12 m - là nhịp cầu treo dây néo dài nhất thế giới. Nhịp cầu này cao hơn mực nước biển trung bình 57 m, để các tàu thủy có thể giao thông qua cầu. (Tuy nhiên phần lớn các tàu đều chạy qua eo phía tây, nơi không có cầu, mà có 4 đường hầm).

Cầu bắt đầu từ Lemacken (nam Malmö, Thụy Điển) tới đảo nhân tạo Pebeholm, có chiều dài 7,85 km, trong đó 5,35 km nằm bên phía Thụy Điển và 2,5 km nằm bên phía Đan Mạch.

Cầu gồm hai tầng, tầng trên là xa lộ châu Âu E20, gồm 4 làn đường rộng 23,5 m dành cho xe hơi và tầng dưới với hai đường ray dành cho xe lửa.

Cầu được bắt đầu xây từ năm 1995. Đoạn chót hoàn thành ngày 14 tháng 8 năm 1999. Thái tử Frederik của Đan Mạch và công chúa Victoria của Thụy Điển đã gặp nhau ở giữa cầu để khánh thành đoạn chót này. Lễ khánh thành chính thức diễn ra ngày 1.7.2000 với sự chủ tọa của nữ hoàng Margrethe II của Đan Mạch và vua Carl XVI Gustav của Thụy Điển.

Trước đó, vào ngày 12 tháng 6 năm 2000 đã có 79.871 người tham gia cuộc thi chạy nửa marathon trên cầu, từ đảo Peberholm tới Malmö.

Tên chính thức của cầu là Øresundsbron, ghép từ tiền tố Ø của tiếng Đan Mạch Øresundsbroen với hậu tố bron của tiếng Thụy Điển Öresundsbron.



Cầu được nối vào đảo nhân tạo Peberholm bên phía Đan Mạch, phía nam đảo Saltholm - dài 4,055 km, diện tích khoảng 3 km² - được tạo ra năm 1995 bằng 1,6 triệu tấn đá, 6 triệu m³ cát đào lên từ các đường hầm và các chân cầu. Trên đảo này có trạm ga xe lửa với hệ thống đường sắt ngang giúp cho xe lửa dễ chuyển từ đường ray này sang đường ray khác.

Tên đảo Peberholm (đảo hồ tiêu) được đặt theo lối so sánh tương tự với tên đảo Saltholm (đảo muối) do báo Politiken (Đan Mạch) mở cuộc thi chọn tên.



Từ đảo nhân tạo Peberholm có 4 đường hầm riêng nối với đảo Amager (gần phi trường Copenhagen, Đan Mạch), trong đó hai đường hầm dành cho xe hơi và hai dành cho xe lửa. Mỗi đường hầm dài 4,005 km, trong đó đường hầm chính dài 3,51 km cộng với hai đầu nối vào, mỗi đầu dài 270 m.

Đường hầm được xây dựng bằng 20 ống tiền chế, mỗi ống dài 176 m, rộng 38,8 m, cao 8,6 m, nặng 55.000 tấn. Cứ mỗi 60 m đường hầm đều có đặt camera để theo dõi tình trạng giao thông. Tốc độ xe chạy trong đường hầm không được vượt quá 90 km/giờ.



Tổng kinh phí xây dựng hết 30,1 tỷ krone Đan Mạch (giá năm 2000), trong đó EU tài trợ 1,4 tỷ krone Đan Mạch, số còn lại được góp vốn bởi Øresundsbro Konsortiet gồm công ty A/S Øresund (của chính phủ Đan Mạch) và công ty Svenskk-danska Bröforbindelsen AB (SVEDAB) của chính phủ Thụy Điển. Số vốn này dự trù sẽ được bồi hoàn vào năm 2035, bằng việc thu lệ phí các xe qua cầu.





















































Năm
Xe Mộtô
Ô tô nhỏ
Ô tô 6-9m
Xe bus
Xe vận tải
Tổng cộng
2001
24.330
2.660.807
74.505
37.745
153.485
2.950.872
2002
25.868
3.106.318
73.942
41.433
180.803
3.428.364
2003
26.881
3.418.382
86.477
41.294
208.402
3.781.436
2004
33.615
3.908.014
94.232
58.270
230.546
4.324.677
2005
29.878
4.499.640
109.631
56.480
269.164
4.964.793
2006
32.387
5.203.178
143.609
55.510
307.909
5.742.593
2007
38.376
5.674.513
161.807
52.339
314.590
6.745.968

Nguồn: [1]







Ba Đường – Wikipedia tiếng Việt


Ba Đường (chữ Hán giản thể: 巴塘县, Hán Việt: Ba Đường huyện) là một huyện thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 7852 km2, dân số năm 2002 là 40.000 người.

Ba Đường có các đơn vị hành chính gồm 1 trấn Phúc Cung và 18 hương: Trúc Ba Long, Lạc Oa, Ba Mật, Trung tâm Nhung, Địa Vu, Tô Oa Long, Xương Ba, Trung Cha, Á Mật Cống, Mô Đa, Áp Anh, Tùng Đa, Đảng Ba, Ba Qua Khê, Liệt Y, Đức Đạt, Thố Lạp, Trà Lạc.










Bình Vũ – Wikipedia tiếng Việt


Bình Vũ chữ Hán giản thể: 平武县, Hán Việt: Bình Vũ huyện) là một huyện thuộc địa cấp thị Miên Dương, tỉnh Tứ Xuyên, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 5974 km2, dân số năm 2002 là 190.000 người.

Bình Vũ được chia thành 9 trấn, 7 hương và 9 hương dân tộc.


  • Trấn: Long An, Bình Thông, Đậu Khấu, Hưởng Nham, Nam Bá, Cổ Thành, Đại Kiều, Thuỷ Tinh, Đại Ấn.

  • Hương: Bá Tử, Cao Thôn, Khoát Đạt, Cựu Bảom Thủy Điền, Thủy Quan, Thổ Thành.

  • Hương dân tộc: hương dân tộc Tạng Hoàng Dương Quan, hương dân tộc Tạng Mộc Bì, hương dân tộc Khương Bình Nam, hương dân tộc Tạng Bạch Mã, hương dân tộc Khương Từ Đường, hương dân tộc Khương Toả Giang, hương dân tộc Tạng Hổ Nha, hương dân tộc Tạng Tứ Nhĩ, hương dân tộc Tạng Mộc Toạ.








Vũ Hầu – Wikipedia tiếng Việt


Vũ Hầu (chữ Hán giản thể: 武侯区, Hán Việt: Vũ Hầu khu) là một quận tại trung tâm thành phố Thành Đô, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Đây là một trong khu vực 5 quận trong thành của Thành Đô. Do trong quận này có Vũ Hầu đường nên quận có tên là Vũ Hầu. Quận này có các đơn vị hành chính gồm 14 nhai đạo, quận lỵ đóng tại nhai đạo Tương Tẩy. Các nhai đạo gồm" Tương Tẩy, Vong Gia Lộ, Ngọc Lâm, Khiêu Tản Tháp, Hoả Xa Nam, Song Nam, Tấn Dương, Hồng Bài Lâu, Ky Đầu Kiều, Kim Hoa Kiều, Thốc Cẩm, Thốc Kiều, Hoa Hưng, Phương Thải Nhai, Tiếu Gia Hà, Thạch Dương Trường, Quế Khê.










Lương Khánh – Wikipedia tiếng Việt


Lương Khánh (chữ Hán giản thể:良庆区, bính âm: Liángqìng Qū, Hán Việt: Lương Khánh khu) là một quận tại thành phố Nam Ninh, khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Quận này có diện tích 1369 km2, dân số năm 2004 là 208.000 người.



Quận này được chia thành các đơn vị hành chính gồm 5 trấn: Lương Khánh, Na Mã, Na Trần, Đại Đường, Nam Hiểu.











Chiến tranh thế giới thứ hai – Wikipedia tiếng Việt









Chiến tranh thế giới thứ hai
Infobox collage for WWII.PNG
Theo chiều kim đồng hồ, từ ảnh trên cùng bên trái: 1. Quân đội Trung Hoa Dân Quốc trong trận Quân Đà Lĩnh; 2. Quân đội Australia chuẩn bị khai hoả khẩu pháo dã chiến 25-pounder trong trận El Alamein thứ nhất; 3. Máy bay ném bom bổ nhào Stuka của Đức xuất hiện trên mặt trận Xô-Đức trong năm 1943; 4. Lực lượng Hải quân Hoa Kỳ trong cuộc đổ bộ lên vịnh Lingayen; 5. Wilhelm Keitel ký văn kiện đầu hàng của Đức Quốc Xã; 6. Hồng quân Liên Xô trong trận Stalingrad.

.




Thời gian
1 tháng 9, 1939 – 2 tháng 9, 1945 (6 năm, 1 ngày)
Địa điểm
Châu Âu, Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Đông Nam Á, Trung Quốc, Trung Đông, Địa Trung Hải và Châu Phi, một phần Bắc Mỹ
Kết quả
Khối Đồng Minh chiến thắng

Khối Trục thất bại


Tham chiến
Đồng Minh

 Liên Xô (1941–45)
 Hoa Kỳ (1941–45)
 Đế quốc Anh


Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949) Trung Quốc (1937–45)

 Pháp
 Ba Lan
 Canada
 Úc
 New Zealand
Flag of South Africa (1928–1994).svg Nam Phi
 Nam Tư (1941–45)
 Hy Lạp (1940–45)
 Na Uy (1940–45)
 Hà Lan (1940–45)
 Bỉ (1940–45)
 Tiệp Khắc
 Brasil (1942–45)
...và các quốc gia khác


Phe Trục

 Đức Quốc xã
 Nhật Bản (1937–45)


 Vương quốc Ý (1940–43)

 Hungary (1940–45)
 România (1941–44)
 Bulgaria (1941–44)
...và các quốc gia khác


Chỉ huy
Chỉ huy Phe Đồng Minh

Liên Xô Joseph Stalin
Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Winston Churchill
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949) Tưởng Giới Thạch


Chỉ huy Phe Trục

Đức Quốc xã Adolf Hitler
Đế quốc Nhật Bản Hirohito
Vương quốc Ý Benito Mussolini




Tổn thất
Tử vong quân sự:
Trên 16.000.000
Tử vong dân sự:
Trên 45.000.000
Tổng tử vong:
Trên 61.000.000 (1937–45)
Tử vong quân sự:
Trên 8.000.000
Tử vong dân sự:
Trên 4.000.000
Tổng tử vong:
Trên 12.000.000 (1937–45)
.

Chiến tranh thế giới thứ hai (cũng được nhắc đến với tên gọi Đệ nhị thế chiến, Thế chiến II hay Đại chiến thế giới lần thứ hai,...) là cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu từ năm 1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng Đồng Minh và phe Trục theo chủ nghĩa phát xít. Hầu hết mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng của cuộc chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực và Nam Mỹ. Cho đến hiện nay, nó là cuộc chiến rộng lớn và gây tàn phá nhất trong lịch sử nhân loại.[1]

Nguyên nhân cuộc chiến được nêu ra thì có nhiều và là một đề tài đang được tranh cãi, trong đó có Hòa ước Versailles, đại khủng hoảng, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt. Cũng chưa có sự thống nhất trong việc tính ngày bắt đầu cuộc chiến: một số người cho rằng đó là khi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, một số người khác tính ngày Nhật Bản xâm lược Trung Quốc vào ngày 7 tháng 7 năm 1937, còn một số khác thì tính vào một ngày còn sớm hơn nữa: ngày Nhật xâm lăng Mãn Châu vào năm 1931. Cũng một số người khác cho rằng hai cuộc thế chiến thực ra chỉ là một và được chia ra bởi một cuộc ngừng bắn.[2]

Chiến sự xảy ra tại khắp các khu vực: Đại Tây Dương, châu Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Địa Trung Hải, Thái Bình Dương, phần lớn Đông Á và Đông Nam Á. Trong đó, chiến sự có quy mô lớn nhất, số người thiệt mạng nhiều nhất diễn ra ở khu vực Đông Âu giữa Liên Xô (một nước thuộc khối Đồng Minh) và phe Trục (gồm Đức Quốc xã và 8 nước chư hầu của Đức). Cuộc chiến kết thúc tại châu Âu khi Đức đầu hàng vào ngày 8 tháng 5 năm 1945 (theo giờ Berlin, còn theo giờ Moskva là ngày 9 tháng 5) nhưng vẫn còn tiếp diễn tại châu Á cho đến khi Nhật đầu hàng vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.

Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc chiến tranh toàn diện, kể cả dân thường không ở mặt trận cũng bị đánh bom hàng loạt. Khoảng 70 triệu người đã bị chết do cuộc chiến này (con số thương vong vẫn tiếp tục được nghiên cứu), kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức Quốc xã (Holocaust). Trong số thương vong, 60% người chết là thường dân, chết vì bệnh dịch, nạn đói, nạn diệt chủng và bom đạn. Thiệt hại nặng nhất là Liên Xô từ 23 tới 27 triệu người chết, trong khi theo tỷ lệ dân số là Ba Lan với 16% (5,6 triệu người chết so với 34,8 triệu người trước chiến tranh[3]).

Cuộc chiến cũng tạo ra nhiều phát minh lớn cho nhân loại như vũ khí nguyên tử, máy bay phản lực, ra-đa...

Sau cuộc chiến, châu Âu bị chia ra làm hai khối: một phía chịu ảnh hưởng của phương Tây do Hoa Kỳ đứng đầu, còn phía kia chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Các nước đồng minh của Hoa Kỳ nằm trong kế hoạch gây ảnh hưởng chính trị thông qua các viện trợ kinh tế mang tên Kế hoạch Marshall trong khi các nước kia trở thành các nước chủ nghĩa cộng sản đồng minh của Liên Xô. Hoa Kỳ liên kết đồng minh trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, trong khi Liên Xô liên kết đồng minh theo Hiệp ước Warszawa. Các liên minh này đóng vai trò quan trọng trong Chiến tranh Lạnh sau Thế chiến thứ II. Tại châu Á, sự chiếm đóng Nhật Bản của quân đội Hoa Kỳ đã dân chủ hóa nước này. Trong khi đó do hậu quả của nội chiến, Trung Quốc tồn tại hai nhà nước: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân quốc tại Đài Loan.





Chiến tranh thế giới thứ hai bắt nguồn từ những lý do khác nhau tại các khu vực địa lý khác nhau. Tại châu Âu, thế chiến thứ II là sự tiếp nối của Chiến tranh thế giới thứ nhất khi Đức muốn xóa bỏ các điều ước trong Hòa ước Versailles và mong muốn lấy lại vị thế cường quốc, đồng thời phân chia lại lãnh thổ cũng như ảnh hưởng chính trị tại châu Âu. Sự phát triển của chủ nghĩa phát xít tại châu Âu và các lãnh tụ tại Đức, Ý có tham vọng vẽ lại bản đồ quốc gia cũng như bản đồ địa chính trị châu Âu và châu Phi, phân chia lại thuộc địa, chia lại thị trường. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Trung Âu và Đông Âu không ổn định sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã cũng làm chiến tranh dễ xảy ra.

Tại Thái Bình Dương, ý định trở thành cường quốc số một của Đế quốc Nhật Bản và sự thắng thế của một số tướng lãnh quân phiệt đã khiến nước này có ý đồ sáp nhập Trung Quốc và các thuộc địa lân cận (của Anh, Pháp) vào Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á để thoả mãn nhu cầu tài nguyên mà đảo quốc nhỏ bé này không thể tự đáp ứng được. Tham vọng chiếm thuộc địa cuối cùng đã lôi cuốn Nhật Bản vào chiến tranh.


Tình hình châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]


Sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít[sửa | sửa mã nguồn]


Cuộc Đại khủng hoảng trên quy mô toàn cầu vào năm 1929 khiến kinh tế trở nên tiêu điều, dân chúng các nước trở nên khốn khổ. Tại nhiều nước, người dân trở nên căm ghét chính phủ và các nhà tư bản, họ quay sang ủng hộ các tư tưởng cực đoan, đòi phát động chiến tranh để phân chia lại thuộc địa, chiếm thêm tài nguyên để giải quyết khó khăn trong nước. Trong bối cảnh đó, vào thập niên 1920 và 1930, chế độ phát xít giành được quyền lực tại Ý và Đức, trong khi các đảng phát xít khác cũng có nhiều thế lực trong chính trường các nước Tây Âu và Trung Âu.

Riêng tại Đức, đảng Đức quốc xã và thủ lĩnh Adolf Hitler đang có hoài bão tạo ra một chính quyền mạnh. Họ đã khơi dậy và khai thác niềm tự hào dân tộc của người Đức, cũng như các nền tảng trụ cột của chủ nghĩa phát xít như sự tôn trọng quân đội và tuân thủ chính quyền. Các sự kiện này khiến Đức trở thành một nước hùng mạnh với quân đội mạnh được xây dựng trên nền tảng tư tưởng chiến lược, một nền công nghiệp phát triển nhanh trong môi trường khuyến khích thương mại và sự ủng hộ của dân chúng trong việc giành lại đất đai đã bị mất sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và danh dự quốc gia. Tại Ý, Benito Mussolini cũng dùng thuật hùng biện như Hitler, nhưng ít thành công hơn.

Thủ lĩnh Đức quốc xã, Adolf Hitler, đã trình bày tham vọng của mình ngay từ năm 1924, trong cuốn tự truyện Mein Kampf, cụ thể như sau:


  • Nước Đức sẽ trở thành "bá chủ của thế giới". Trước hết, phải tính sổ với nước Pháp, "kẻ thù truyền kiếp của dân Đức". Sau khi đã tiêu diệt được Pháp, Đức phải bành trướng về hướng Đông – chủ yếu là chiếm đất của nước Nga để giành lấy "không gian sinh tồn" (tức là mở rộng lãnh thổ và tài nguyên), nếu chiếm được nước Nga, nước Đức sẽ không còn bị bó hẹp trong lãnh thổ bé nhỏ hiện tại mà sẽ trở thành một đại quốc có lãnh thổ rộng bao la.

  • Về tính chất của nhà nước Quốc xã tương lai, Hitler nói rõ rằng sẽ không có cái trò "dân chủ ngu xuẩn" và rằng Đế quốc thứ Ba sẽ được đặt được một thể chế độc tài.

  • Hitler xem mọi đời sống như là sự tranh đấu trường kỳ và thế giới như là khu rừng, trong đó chủng tộc nào mạnh hơn sẽ sống sót và thống trị. Đây là điều cốt lõi của tư tưởng Quốc xã về tính ưu việt của chủng tộc Aryan (người Đức). Và nếu chủng tộc Aryan muốn vượt lên trên thì phải chà đạp những chủng tộc khác, đặc biệt là những chủng tộc mà Hiler xem là cỏ rác – đó là Do Thái và Slav (người Nga).

Sau khi Hitler lên nắm chính quyền, ông ta đặt ưu tiên vào việc xây dựng lại quân đội. Đức bỏ tiền ra để nghiên cứu các vũ khí nguy hiểm hơn và xây dựng các công nghiệp quân sự. Trong khi đó, nhiều nhà tài phiệt Anh, Mỹ và phương Tây đã cung cấp tài chính cho Hitler vào những năm 1930 để ông ta có thể chi trả cho các hoạt động chính trị cũng như giúp Đức gây dựng nền công nghiệp quân sự (vấn đề mối quan hệ tài chính của Đức Quốc xã với các tập đoàn tư bản Mỹ được che giấu triệt để đã được nhà kinh tế học người Anh nổi tiếng Anthony Sutton làm rõ trong cuốn sách "Phố Wall và sự nổi lên của Hitler"[4]). Các tài liệu mới giải mật từ kho lưu trữ Hoa Kỳ cho thấy Thượng nghị sĩ Prescott Bush (cha của Tổng thống Mỹ thứ 41 và ông nội của Tổng thống Mỹ thứ 43) là một trong những nhà tài phiệt Mỹ đã tham gia giao dịch với các kiến ​​trúc sư tài chính của chủ nghĩa phát xít[5].

Vào năm 1936,với ý định đáp trả hiệp ước tương trợ Pháp-Xô năm 1935, Hitler đã đem quân tái chiếm đóng Rhineland, vùng đất mà theo quy định của Hiệp ước Versailles là không thuộc về người Đức. Chính phủ Pháp lúc ấy đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính ở trong nước khiến đồng franc mất giá[6], nên họ chủ trương tránh gây sự với người Đức mặc cho Đảng Cộng sản Pháp kêu gọi chính phủ có hành động quân sự nhằm lấy lại quyền kiểm soát đối với khu vực này. Chính phủ Anh cũng ủng hộ hành động xâm lược của Đức trong tình cảnh người dân Anh kêu gọi chính phủ không dùng vũ lực để giải quyết cuộc khủng hoảng và đa số người Anh tin rằng các thỏa thuận của hiệp ước Versailles là bất công đối với nước Đức[7].

Giới chức Anh, Pháp, Mỹ, bất chấp sự trỗi dậy của Đức Quốc xã, đã tích cực đầu tư vào nền kinh tế Đức, tạo điều kiện cho bộ máy chiến tranh của phát xít Đức phát triển[8]. Hãng sản xuất vũ khí danh tiếng của Anh Vickers-Armstrong đã cung cấp vũ khí hạng nặng cho Đức, trong khi các công ty Mỹ như Pratt & Whitney, Douglas, Bendix Aviation... cung cấp cho Đức các bằng sáng chế, bí mật quân sự và các động cơ máy bay tối tân[9]. Thủ tướng Anh Stanley Baldwin tóm tắt vấn đề vào tháng 7/1936 như sau: “Nếu chiến sự có diễn ra ở châu Âu, thì tôi mong đó sẽ là cuộc chiến giữa Bolshevik (Liên Xô) và Đức Quốc xã”[10].


Quan hệ giữa các nước châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]


Sự trỗi dậy của Đức được coi là một mối đe dọa đối với Ba Lan. Người Đức đã liên tục gây sức ép đòi trả lại vùng Danzig, vùng lãnh thổ được sáp nhập vào Ba Lan theo hiệp ước Versailles. Người Ba Lan kêu gọi sự giúp đỡ từ nước Pháp đề phòng trường hợp xảy ra đụng độ với Đức, nhưng Pháp tỏ ra khá thờ ơ [11]. Sự từ chối hợp tác của Pháp có thể coi là một trong những lí do khiến Ba Lan quyết định đàm phán với người Đức [12][13][14][15][16]. Ngoài ra, do thủ tướng Đức Adolf Hitler là người Áo nên Thủ tướng Ba Lan Piłsudski coi Hitler là người "kém nguy hiểm hơn" các tiền nhiệm người Đức như Gustav Stresemann, và ông ta cho rằng Liên Xô là mối đe dọa lớn hơn. Do vậy Ba Lan chủ trương hợp tác với Đức để cùng chống lại Liên Xô, thậm chí nước này phản đối các nỗ lực của Pháp và Tiệp Khắc để đưa Liên Xô vào một mặt trận chung chống lại Đức.



Hiệp ước Không xâm lược giữa Ba Lan và Đức, ký vào ngày 26 tháng 1 năm 1934 có hiệu lực 10 năm. Đức đòi hỏi khu vực Danzig, Ba Lan đòi hỏi Korridor và đòi sửa lại biên giới vùng Oberschlesien. Khi Đức chiếm Tiệp Khắc (năm 1938), Ba Lan đã đem quân xâm chiếm vùng Tesschen, vùng lãnh thổ mà họ đã có tranh chấp với Tiệp Khắc năm 1919 nhằm không để vùng đất này rơi vào tay người Đức. Đây là vùng lãnh thổ có khá đông người Ba Lan sinh sống, và đa số người dân địa phương tại đây hoan nghênh sự chiếm đóng này [17] mặc dù sau đó họ đã tỏ ra không hài lòng trước chính sách đồng hóa những người dân Tiệp Khắc sống tại đây. Phát xít Đức chấp nhận để cho Ba Lan chiếm giữ Tesschen, khiến cho nhiều người Tiệp Khắc về sau đã cáo buộc chính phủ Ba Lan đồng lõa với quân xâm lược Phát xít Đức, bất chấp chính phủ Ba Lan đã liên tục phủ nhận[18].

Trong các năm 1936-1937, Liên Xô đã giúp đỡ những người Cộng hòa Tây Ban Nha chống lại quân phiến loạn phát xít Tây Ban Nha của Franco (còn gọi là phe Quốc gia) được Adolf Hitler và Benito Mussolini cũng như chế độ độc tài của Salazar ở Bồ Đào Nha và cả Tòa thánh Vatican hậu thuẫn. Anh và Pháp tuyên bố không can thiệp vào cuộc nội chiến, nhưng cả hai đều có những động thái của riêng mình. Đa số giới lãnh đạo Anh ngả về phe Quốc gia của Franco bởi tư tưởng chống cộng của họ. Ngoại trưởng Anh lúc đó là Eden đã tiết lộ rằng chính phủ Anh "ưa thích một chiến thắng của phe nổi dậy hơn một chiến thắng của phe Cộng hòa" [19]. Hải quân Hoàng gia Anh cũng công khai ủng hộ phe Quốc gia của Francisco Franco. Trong cuộc nội chiến, Hải quân Hoàng gia đã liên tục cung cấp thông tin về vận chuyển của phe Cộng hòa cho các lực lượng Phát xít, và tàu HMS Queen Elizabeth thậm chí đã được sử dụng để ngăn chặn Hải quân phe Cộng hòa tấn công cảng Algeciras. Ở Pháp thì xảy ra một sự chia rẽ sâu sắc khi những người cánh tả yêu cầu chính phủ của họ hỗ trợ những người Cộng hòa, trong khi phe cánh hữu lại muốn giúp đỡ lực lượng Phát xít. Chính phủ Pháp của Léon Blum có cảm tình hơn với phe Cộng hòa do họ lo sợ rằng việc phe Franco lên nắm quyền tại Tây Ban Nha sẽ tạo ra thế bao vây của các lực lựợng phát xít đối với nước Pháp.[20] Chính phủ Pháp đã có một số hành động nhằm thể hiện sự ủng hộ cho phe Cộng hòa, song từ chối can thiệp sâu hơn một phần cũng bởi sức ép từ Anh và các đảng phái ủng hộ phát xít ở trong nước. Mỹ với Đạo luật Trung lập đã tuyên bố không tham gia vào những sự kiện bên ngoài châu Mỹ, và đến ngày 6 tháng 1 năm 1937 thì Quốc hội cũng thông qua nghị quyết về việc cấm xuất khẩu vũ khí sang Tây Ban Nha [21] Vào năm 1938, khi phe Cộng hòa đứng trước nguy cơ thất bại, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đề xuất bãi bỏ việc cấm bán vũ khí và yêu cầu đưa máy bay sang Tây Ban Nha nhằm giúp đỡ Phe Cộng hòa song không được Quốc hội chấp thuận [22]. Một số nhà tài phiệt Mỹ giai đoạn này đã ủng hộ Phe phát xít của Franco bằng cách cung cấp xăng dầu, phương tiện vận tải cũng như tiền bạc, thậm chí những sự giúp đỡ này còn được đánh giá là đã "góp phần quyết định cho chiến thắng về sau của phe Phát xít"[23].

Nước Đức và nước Ý của Adolf Hitler và Benito Mussolini thì công khai ủng hộ phe Quốc gia. Họ đã gửi binh lính, máy bay, xe tăng và các loại vũ khí khác cho phe Franco. Chính phủ Ý gửi "Quân đoàn tình nguyện", còn Đức gửi Binh đoàn Condor (Condor Legion). Lực lượng Quân đoàn tình nguyện lên đến đỉnh điểm với 50.000 quân và tổng cộng có tới 75.000 người Ý tham chiến ở Tây Ban Nha. Thời kỳ cao điểm có chừng 10.000 quân Đức, trong tổng số 16.000 người đến Tây Ban Nha tham chiến[24]. Ngược lại với Đức và Ý, Liên Xô chủ trương giúp đỡ phe Cộng hòa nhưng với hình thức bí mật. Chính phủ Liên Xô cung cấp viện trợ khí tài cho lực lượng Cộng hòa, và được chính phủ Cộng hòa trả bằng vàng dự trữ của ngân khố quốc gia. Mặc dù vậy chất lượng các loại vũ khí mà Liên Xô bán cho phe Cộng hòa là không đồng bộ khi hầu hết các loại súng trường và súng ngắn do họ cung cấp đều đã cũ, lạc hậu hoặc chỉ có thể sử dụng hạn chế (một số có từ những năm 1860) trong khi các loại xe tăng như T-26 và BT-5 lại khá hiện đại và tỏ ra hiệu quả trong chiến đấu.[25][26] Liên Xô cung cấp máy bay cho Phe Cộng hòa bằng lực lượng của họ nhưng máy bay do Đức cung cấp cho lực lượng Quốc gia đã tỏ ra vượt trội hơn vào cuối cuộc chiến. "Quân tình nguyện Liên Xô" được đưa sang Tây Ban Nha tham chiến chỉ có 700 người, đa phần là các phi công máy bay, hoặc lái xe tăng. Ngoài ra còn có những chiến sĩ của các Lữ đoàn quốc tế chiếm phần lớn nhất trong số các chiến sĩ quốc tế chiến đấu cho chính quyền Cộng hòa. Chừng 30.000 người được cho là đến từ 53 quốc gia khác nhau chiến đấu trong các lữ đoàn quốc tế.

Cuộc Nội chiến tại Tây Ban Nha kết thúc vào 1 tháng 4 năm 1939, với thắng lợi của phe nổi dậy và việc thiết lập chế độ độc tài của thủ lĩnh phe Quốc gia là Tướng Francisco Franco. Franco đưa Tây Ban Nha đi theo mô hình phát xít tương tự như Hitler và Mussolini, nhưng tuyên bố trung lập trong chiến tranh thế giới thứ 2.

Ngày 1 tháng 3 năm 1938, nước Đức quốc xã thôn tính nước Áo mà không cần nổ một phát súng. Việc Áo sáp nhập vào Đức nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân hai nước nên cả Anh, Pháp đều không có động thái phản đối . Thủ tướng Anh Neville Chamberlain tuyên bố: "Chúng ta phải tránh bị mắc lừa. Và chúng ta cũng không để cho các nước nhỏ có ảo tưởng về sự giúp đỡ của Hội Quốc Liên có thể dành cho họ để chống lại sự xâm lược".[29]. Ngược lại Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô tuyên bố lên án cuộc xâm lược này của Đức [30].



Sau khi Áo bị sát nhập với Đức, Hitler đòi hỏi vùng Sudentenland từ Tiệp Khắc. Đây là vùng đất có số lượng lớn người gốc Đức sinh sống. Tháng 8 năm 1938, quân đội Đức tập trung 30 sư đoàn quanh biên giới Tiệp Khắc, sẵn sàng tấn công nước này. Báo chí Đức, với ý định gây áp lực cho các cường quốc phương Tây chấp nhận yêu sách của Hitler, cũng liên tục đưa ra những thông tin về tội ác của người Tiệp Khắc đối với những người dân gốc Đức tại Sudetenland [31]. Hitler thậm chí còn cáo buộc chính phủ Tiệp Khắc đang dần dần tiêu diệt những người gốc Đức sống tại đây [32].

Đến lúc này, tham vọng của Hitler đã lộ rõ, Liên Xô đề nghị với Anh - Pháp việc gạt bỏ những mâu thuẫn giữa hai phía và thành lập một liên minh nhằm ngăn chặn Hitler nhưng bị 2 nước này từ chối. Ngược lại, Anh - Pháp lại nhận lời mời của Ngoại trưởng Đức Ribbentrop và tham gia ký Hiệp ước Munich trong ngày 29, 30 tháng 9 năm 1938 giữa tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý. Kết quả của hội nghị này là một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được ký giữa bốn nước này (Hiệp ước Munich) ngày 30 tháng 9 bất chấp sự phản đối của chính phủ Tiệp Khắc. Chính phủ Pháp cũng đồng ý với Đức và Anh loại Liên Xô (nước ủng hộ Tiệp Khắc) ra khỏi hội nghị Munich.[33]

Bằng Hiệp định Munich, vùng Sudentenland được sáp nhập vào Đức, đổi lại Anh và Pháp muốn Hitler cam kết sẽ không tiến hành bất cứ một cuộc chiến xâm lược nào ở châu Âu . Anh và Pháp cũng thừa nhận việc Đức Quốc xã thôn tính nước Áo là việc đã rồi đồng thời làm ngơ cho Hitler đánh chiếm xứ Bohemia và Moravia, chiếm phía tây Tiệp Khắc; đặt Ba Lan và cả Liên Xô trước nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã[35] Sau khi ký Hiệp định Munich, Thủ tướng Anh là Chamberlain đã tự tin tuyên bố "đây là hòa bình cho chúng ta". Trong một lá thư gửi Tổng giám mục Canterbury, Chamberlain đã viết rằng: "Tôi chắc chắn rằng một ngày nào đó người Séc sẽ thấy rằng những gì chúng tôi đã làm là nhằm bảo đảm cho họ một tương lai tốt đẹp hơn. Và tôi thực sự tin rằng những gì chúng tôi đã làm sẽ chứng minh rằng nhượng bộ là thứ duy nhất có thể cứu thế giới khỏi chiến tranh."[36] Liền sau Hiệp ước Munich, 2 hiệp ước khác được Anh-Pháp ký với Đức:


Hai nước Anh và Pháp đã đánh giá quá cao sức mạnh của Đức lúc bấy giờ cho nên họ tìm mọi cách để tránh chiến tranh với Hitler. Chính phủ cả hai nước đều cho rằng lực lượng vũ trang của Đức là vượt trội so với họ ở thời điểm đó nên cả hai đã đẩy nhanh việc hiện đại hóa quân đội của nước mình nhằm đối phó với Đức. Sự nghi kỵ từ lâu của họ đối với chính quyền Liên Xô của Stalin cũng khiến họ không muốn lập liên minh với Liên Xô. Qua Hiệp ước München vào ngày 29 tháng 9, Anh- Pháp đã vứt bỏ liên minh quân sự với Cộng hoà Tiệp Khắc và buộc Tiệp Khắc phải cắt cho Đức một phần lãnh thổ để thỏa mãn yêu cầu của Đức. Nhưng không dừng lại ở đó, đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, Đức đã chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc. Liên Xô ra tuyên bố phản đối Đức, nhưng Anh-Pháp vẫn bỏ qua việc này. Thấy tình hình thuận lợi, cả Ba Lan và Hungari cũng theo chân Đức, đưa quân chiếm một phần lãnh thổ Tiệp Khắc. Ý theo gương Đức, đã tiến hành xâm lược Ethiopia năm 1935 và sát nhập Albania vào ngày 12 tháng 4 năm 1939[38].

Cây bút Ekaterina Blinova của Nga trong một bài viết đã cáo buộc rằng nước Anh không chỉ bỏ mặc Tiệp Khắc cho Hitler xâm chiếm mà còn tình nguyện trao gần 9 triệu USD tiền vàng vốn thuộc về Tiệp Khắc cho Đức Quốc xã. Các thỏi vàng của Tiệp Khắc đã được gửi ngay cho Hitler vào tháng 3/1939 khi quân Đức chiếm Praha. BLinova cũng cho rằng chính phủ Anh thực sự đã ngăn chặn và làm phá sản một âm mưu đảo chính của một nhóm sĩ quan cao cấp của quân đội Đức nhằm vào Adolf Hitler vào năm 1938, khi Hitler ra lệnh tấn công Tiệp Khắc. Bài viết cũng trích dẫn lời của tác giả Anh Michael McMenamin cho biết: “Về mặt lịch sử, không có nghi ngờ gì về việc phong trào kháng chiến Đức đã liên tục cảnh báo cho người Anh về ý đồ của Hitler là muốn xâm lược Tiệp Khắc vào tháng 9/1938... Tuy nhiên, để đáp lại, chính phủ Anh khi đó đã thực hiện mọi bước đi ngoại giao có thể để... phá hoại phe đối lập với Hitler.”[10]

Sau Hiệp ước Munich, nhiều quốc gia đã quay sang tìm cách thỏa hiệp với Đức do họ lo sợ mình sẽ rơi vào thảm cảnh tương tự như Tiệp Khắc. Ngày 7 tháng 6 năm 1939, hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được Đức Quốc xã tiếp tục ký với ba nước Baltic (Estonia, Latvia, Litva) và Đan Mạch, những nước có biên giới nằm khá gần Liên Xô. Với các hiệp ước này, Đức Quốc xã cam kết sẽ bảo vệ những quốc gia nói trên khỏi "mối đe dọa" từ Liên Xô và Phương Tây[39].

Việc Anh, Pháp từ chối lập liên minh với Liên Xô và ký với Đức hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau, đồng thời bỏ mặc Tiệp Khắc cho Đức tiêu diệt, tất cả khiến Liên Xô vô cùng lo ngại. Trong một bài phát biểu tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18 vào ngày 10 tháng 3 năm 1939, Stalin đã chỉ trích Phương Tây và cho rằng họ không thành tâm trong việc chống lại Hitler, và thực chất mọi hành động của họ chỉ nhằm hướng cỗ máy chiến tranh của Đức nhắm vào Liên Xô[40][41].

Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp nhằm tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Liên Xô tin rằng một cuộc chiến tranh là khó có thể tránh khỏi và mong muốn có một hiệp ước Tay Ba với Anh và Pháp đồng thời đề xuất mở một cuộc tấn công hai cánh vào nước Đức. . Ở chiều ngược lại chính phủ Anh và Pháp tin rằng hoàn toàn có thể tránh được chiến tranh và chủ trương nhượng bộ với Đức, đồng thời bác bỏ đề xuất của Liên Xô. Anh và Pháp cũng tỏ thái độ nghi ngại về khả năng thực sự của quân đội Liên Xô trong một mặt trận quân sự chống lại Đức, khi xét đến việc Liên Xô đã bị suy yếu sau cuộc thanh lọc chính trị của Stalin cách đó không lâu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ này[38], hiệp định tương trợ mà Liên Xô muốn xây dựng với các nước Tây Âu đã không thể được thực hiện.

Trước tình hình đó, Stalin cho rằng một cuộc chiến với Đức không còn là ưu tiên hàng đầu của ông ta và bắt đầu quay sang đàm phán với Đức. Từ tháng 4 đến tháng 7, hai bên đã có những cuộc tiếp xúc bí mật với nhau thông qua các đoàn ngoại giao.. Những buổi gặp mặt này bề ngoài tưởng chừng là những cuộc hội đàm kinh tế, nhưng dần dần hai bên đã dần chuyển qua đàm phán nhằm tìm kiếm một thỏa thuận chính trị mà cụ thể là một hiệp ước không xâm lược giữa hai nước. Từ tháng 5, Stalin đã loại bỏ Maxim Litvinov, một người Do Thái, ra khỏi vị trí Bộ trưởng ngoại giao với lý do "thân Phương Tây" và thay bằng Vyacheslav Molotov. Stalin sau đó cũng loại bỏ các bộ trưởng là người Do Thái khỏi chính quyền[44][45][46]. Hành động của Stalin đã xóa đi một trở ngại lớn trong việc xích lại gần hơn với Đức. Vào đầu tháng 8 năm 1939, Đức và Liên Xô đã bỏ qua hoàn toàn các thỏa thuận kinh tế, và bắt đầu thảo luận về một liên minh chính trị . Họ giải thích cho nhau về những lí do cho sự thù địch giữa hai bên trong những năm 30, tìm cơ sở chung cho chính sách chống chủ nghĩa tư bản ở cả hai nước[cần giải thích]

Vào ngày 22 tháng 5, Ý và Đức ký Hiệp ước Thép, chính thức hoá liên minh quân sự giữa hai nước. Về sau, hiệp ước được mở rộng thêm Đế quốc Nhật Bản, làm thành bộ ba Đức-Ý-Nhật, 3 cường quốc lớn nhất của phe Trục trong thế chiến thứ 2.

Cũng trong tháng 8, ba nước Anh, Pháp và Liên Xô mở lại cuộc đàm phán cuối cùng về một liên minh quân sự chống Đức. Ở cuộc gặp mặt, Liên Xô yêu cầu Ba Lan cho phép Hồng quân Liên Xô tiến quân qua lãnh thổ nước này nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công của Đức. Anh và Pháp cũng đề nghị chính phủ Ba Lan đồng ý với yêu cầu của phía Liên Xô, nhưng chính phủ Ba Lan đã từ chối đề nghị này. Ngoại trưởng Ba Lan Józef Beck cho rằng đây chỉ là cái cớ của Stalin nhằm thực hiện ý định chiếm đóng Ba Lan và một khi Hồng quân đã tiến vào Ba Lan, họ sẽ không bao giờ rút đi [53]

Giờ đây Liên Xô đứng trước 2 sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập và phải một mình chống đỡ với các cuộc tấn công của phát xít Đức; hoặc phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược nhằm tranh thủ thời gian củng cố quân đội. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không thể tránh khỏi. Vào ngày 23 tháng 8, Đức và Liên Xô chính thức ký Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một thoả thuận không xâm lược trong đó có một điều khoản bí mật chia sẻ vùng ảnh hưởng tại Đông Âu giữa hai nước này. Thoả thuận này làm các nước Tây phương ngạc nhiên, nếu nhớ rằng hai nước này đã ủng hộ hai phía khác nhau trong Nội chiến Tây Ban Nha vừa mới kết thúc. Tuy nhiên với Liên Xô, hành động này không có gì khó hiểu vì Anh-Pháp đã từ chối lập liên minh chống Đức, mà họ thì không muốn một mình đối đầu với Đức tại thời điểm đó.


Tình hình châu Á[sửa | sửa mã nguồn]




Tại châu Á, sau khi hứng chịu cuộc Đại khủng hoảng năm 1929, Đế quốc Nhật Bản cũng đi theo con đường quân phiệt và phát xít hóa giống như Đức. Nhật Bản thiếu các nguồn tài nguyên một cách trầm trọng, họ buộc phải nhập khẩu các nguyên liệu như sắt, dầu mỏ và than đá vì thiếu các tài nguyên thiên nhiên ở trong nước để duy trì tăng trưởng trong ngành công nghiệp. Người Nhật cảm thấy rằng đã đến lúc cần phát động chiến tranh để giành lấy các thuộc địa giàu tài nguyên tại châu Á từ tay các nước thực dân là Anh và Pháp.

Mặt khác, cũng như Đức quốc xã, Nhật bản thi hành chính sách chống chủ nghĩa Cộng sản rất mạnh, bởi học thuyết Cộng sản chủ nghĩa chủ trương bình đẳng xã hội, điều này rõ ràng là xâm phạm đến quyền lực của Thiên Hoàng, các quý tộc, những nhà tư bản và cả giới quân nhân hiếu chiến, các lực lượng đang cai trị Nhật Bản khi đó. Vào năm 1936, Nhật Bản đã ký kết "Hiệp định phòng Cộng Nhật - Đức" (Nichidoku bôkyô kyôtei) với nước Đức quốc xã. "Phòng Cộng" có nghĩa là ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản, quốc gia bị xem như là đối tượng thù địch không được nêu tên trong hiệp ước này, nhưng ai cũng ngầm hiểu đó chính là Liên Xô.

Nhật Bản đã xâm chiếm Trung Quốc từ năm 1931. Các khu vực bị Nhật chiếm đóng trong quốc gia đang bị chia cắt này ngày càng lớn trong những năm cuối thập niên 1930. Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945) đã bùng nổ sau khi Nhật lấy cớ sự kiện Lư Câu Kiều để đưa quân tấn công Trung Quốc. Với ưu thế vượt trội về không quân và hải quân, cũng như tinh thần kỷ luật cao của binh sĩ, Nhật Bản nhanh chóng chiếm đóng hầu hết miền đông bắc Trung Quốc.

Lúc này, hai phía Quốc dân đảng và Cộng sản đảng chấp nhận ngừng chiến để tập trung vào việc đánh đuổi Nhật Bản ra khỏi Trung Quốc. Cuộc chiến còn có sự tham gia của Không quân Liên Xô để hỗ trợ cho quân Trung Quốc lúc này còn rất yếu về không quân so với Nhật.

Lúc đầu, Trung Quốc giành được một số thắng lợi, nhưng sau này đà thắng quay sang phía Nhật và họ đã chiếm luôn cả nhiều vùng miền Đông Nam Trung Quốc. Trong cuộc tấn công của Nhật có nhiều sự kiện khi dân thường bị tàn sát tàn nhẫn, trong đó có sự kiện Thảm sát Nam Kinh, đã khiến dư luận quốc tế ra áp lực đòi hỏi Nhật rời khỏi Trung Quốc, tuy nhiên Nhật Bản phớt lờ những sức ép này. Hoa Kỳ, nước đang nắm giữ nhiều đảo ở Thái Bình Dương và Phillipine, đã bày tỏ sự lo ngại đối với các hoạt động của Nhật, và bắt đầu dùng các biện pháp trừng phạt như không cho hàng hóa được tàu chở đến Nhật, nhất là dầu mỏ.


Viên sĩ quan Nhật thuyết trình về chiến lược Tân Thái Bình Dương cho binh sĩ.

Nhật đã chiếm đóng hầu hết các khu vực thành thị và công nghiệp tại Trung Quốc trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu (sau sự kiện cầu Lư Câu 1937). Tuy thế, Trung Quốc không có hai tài nguyên quan trọng trong việc phát triển và bảo đảm an ninh của Nhật: đó là dầu mỏ và cao su. Có hai quan điểm trong các tướng lãnh Nhật về cách đạt được các tài nguyên này: một là đánh vào phía bắc, tức là vào lãnh thổ Liên Xô và chiếm lấy một phần lớn của Siberi và hai là đánh xuống phía nam vào các thuộc địa của Âu Châu tại Đông Nam Á.

Sau đó, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật nổ ra khi Nhật bản muốn xâm chiếm lãnh thổ viễn đông của Nga và phía đông Mông Cổ. Nhật bản cho rằng lục quân Liên Xô cũng giống như họ, chỉ có trang bị nhỉnh hơn thời Thế chiến thứ nhất đôi chút, nhưng khi giao chiến thì Nhật thấy rằng lúc đó quân đội Liên Xô đã được cơ giới hoá quá nhanh, vượt xa trình độ của lục quân Nhật. Kết quả là lục quân Nhật Bản bị Liên Xô đánh bại 2 lần liên tiếp, và các chỉ huy Nhật Bản kết luận rằng cách đánh vào phía bắc không thể giành được chiến thắng. Sau thất bại trong trận Khalkhin Gol, Nhật Bản và Liên Xô đã ký một hiệp ước trung lập vào ngày 13 tháng 4 năm 1939. Nhiều sử gia Liên Xô cho rằng việc thất bại trong chiến dịch Khalkhin Gol đã khiến Nhật từ bỏ kế hoạch xâm lược Liên Xô, dù sau này Đức Quốc xã đã đề nghị Nhật cùng hợp sức tấn công Liên Xô vào năm 1941[a][b][c].

Không thể tiến lên phía bắc, giờ đây tham vọng của Nhật được hướng xuống phía nam, vào các thuộc địa của Anh, Pháp, Hà Lan tại khu vực Đông Nam Á. Chiếm được vùng này, Nhật Bản sẽ có được hai tài nguyên quan trọng là dầu mỏ và cao su, cho phép họ đủ sức tranh đoạt vị trí bá chủ ở Thái Bình Dương với Anh và Hoa Kỳ.



Chiến trường châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]


Chiến trường châu Âu 1939-1940[sửa | sửa mã nguồn]


Vào ngày 1 tháng 9, chỉ một tuần sau khi Hiệp ước Molotov-Ribbentrop được ký kết, lấy cớ bảo vệ kiều dân gốc Đức và phản công lại vụ phóng hỏa đốt trụ sở cơ quan phát thanh Đức của lính Ba Lan (vụ việc này về sau được chứng minh là do quân Đức dựng lên). Đức xâm lược Ba Lan khiến Anh và Pháp phải tuyên chiến với Đức để làm tròn bổn phận theo hiệp ước với Ba Lan, tuy nhiên thực tế 2 nước này đã không có hành động gì trợ giúp cho Ba Lan (Anh, Pháp hy vọng sau khi Đức chiếm xong Ba Lan thì sẽ ngừng lại hoặc quay sang tấn công Liên Xô).

Đức đã huy động 56 sư đoàn, tiến theo 3 đường vào Ba Lan từ biên phía bắc, phía đông và phía tây và mục tiêu của cả ba hướng tấn công này đều là thủ đô Warsaw của Ba Lan. Trong khi đó, không quân Đức ra sức oanh tạc phá hủy các cơ sở hạ tầng, trục đường giao thông, trung tâm chỉ huy và nhất là các phi trường Ba Lan.


Máy bay tiêm kích Bf 110 của Không quân Đức vượt biên giới Ba Lan


Molotov ký hiệp ước với nước Đức, Ribbentrop và Stalin đứng sau.


Lính Anh đóng ở Pháp đang chơi bóng

Nhờ ưu thế vượt trội về quân lực, vũ khí và phương tiện kỹ thuật nên quân đội Đức đã dễ dàng chọc thủng phòng tuyến biên giới Ba Lan ở nhiều nơi. Chỉ trong 1 tuần đầu của cuộc chiến, quân Đức đã tiến được 225 km. Quân Ba Lan choáng váng trước tốc độ tiến công của chiến tranh chớp nhoáng do Đức thực hiện. Ngày 13 tháng 9, thủ đô Ba Lan bị vây hãm. Chính phủ Ba Lan (đứng đầu là tổng thống Ignacy Mościcki) và bộ chỉ huy quân sự tối cao đã rời bỏ thủ đô ngay trong ngày đầu tiên của cuộc chiến và chạy về phía đông nam, sau đó lên máy bay sang Anh tị nạn.

Vào ngày 17 tháng 9, Hồng quân Liên Xô cũng tấn công Ba Lan từ phía đông khi biên giới đã bỏ trống do Ba Lan chuyển quân sang phía tây chống Đức, với lí do là để bảo vệ kiều dân gốc Nga và thu hồi lại những vùng đất đã bị Ba Lan chiếm đóng của họ trong Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921). Sự xâm nhập từ 2 nước mạnh khiến chính phủ Ba Lan phải chạy khỏi đất nước, một phần quân đội Ba Lan rút theo và tổ chức lại ở Pháp. Đến ngày 6 tháng 10, lực lượng quân đội Ba Lan còn lại hoàn toàn đầu hàng. Lãnh thổ Ba Lan do Đức kiểm soát nằm dưới quản lý của 1 viên Toàn quyền Đức trong khi các vùng phía đông (từ năm 1772 đến trước Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921) thuộc lãnh thổ Đế chế Nga, được gọi là Tây Belarus và Tây Ucraina) được hoàn trả cho Liên Xô. Khoản 22.000 tù binh chiến tranh Ba Lan sau đó bị Liên Xô xử bắn ở Katyn. Cuộc tấn công của Liên Xô, mà nhân dân Liên Xô, Ukraina và Belarus gọi là "chiến dịch giải phóng Tây Belarus và Tây Ukraina", đã dẫn đến việc tái hợp nhất nửa phía Tây Ukraina và Tây Byelorussia (sau khi Ba Lan chiếm vào năm 1921), và hiện nay được coi là 1 ngày lễ chính ở 2 nước này[54]

Sự sụp đổ nhanh chóng của Ba Lan có lý do khách quan là sự vượt trội về công nghệ quân sự của Đức, còn lý do chủ quan là vì họ quá tin vào lời hứa của Anh-Pháp sẽ nhanh chóng tiếp viện cho Ba Lan, nhưng thực tế viện trợ đã không đến. Người Ba Lan cho rằng họ đã bị đồng minh của họ bỏ rơi, nhiều người cũng tin rằng Anh và Pháp đã phản bội Ba Lan vì khi Đức tấn công Ba Lan, quân Anh-Pháp có tới 110 sư đoàn đang áp sát biên giới Đức so với chỉ 30 sư đoàn của Đức, họ cho rằng nếu Anh-Pháp tấn công thì sẽ nhanh chóng buộc Đức phải rút quân về nước. Tư lệnh kỵ binh Đức Quốc xã Siegfried Westphal từng nói, nếu quân Pháp tấn công trong tháng 9 năm 1939 vào chiến tuyến Đức thì họ "chỉ có thể cầm cự được một hoặc hai tuần". Riêng ở đồng bằng Saar tháng 9 năm 1939, binh lực Pháp có 40 sư đoàn so với 22 của Đức, phía Đức không có xe tăng và chỉ có chưa đầy 100 khẩu pháo các cỡ, quá yếu ớt khi so sánh với trang bị của Pháp (1 sư đoàn thiết giáp, ba sư đoàn cơ giới, 78 trung đoàn pháo binh và 40 tiểu đoàn xe tăng). Tướng Đức Alfred Jodl từng nói: "Chúng tôi (Đức) đã không sụp đổ trong năm 1939 chỉ do một thực tế là trong chiến dịch Ba Lan, khoảng 110 sư đoàn của Anh và Pháp ở phương Tây đã hoàn toàn không có bất cứ hoạt động gì khi đối mặt với 23 sư đoàn Đức"[55].

Những ý kiến khác thì cho rằng Anh và Pháp đã không thể làm gì nhiều để giúp Ba Lan vào thời điểm đó. Quá trình huy động binh lính ở cả hai nước đã diễn ra quá chậm, chưa kể đến việc thiếu thốn các phương tiện vận chuyển, máy bay chiến đấu... Ngoài ra Anh và Pháp cũng đã bị bất ngờ bởi sức tấn công hiệu quả của người Đức, họ cho rằng Ba Lan có thể cầm cự ít nhất là đến cuối năm, đủ thời gian cho họ có thể đem quân đến tiếp viện, nhưng trên thực tế người Ba Lan đã sụp đổ quá sớm. Một lí do khác cũng được đưa ra là việc Stalin đem quân tấn công Ba Lan nằm ngoài dự tính của chính phủ Anh-Pháp, do đó họ không muốn tham chiến vội bởi họ lo sợ sẽ phải đối đầu với cả lực lượng của Đức lẫn của Liên Xô. Tư tưởng "chủ hòa" lúc ấy vẫn chiếm ưu thế trong nội bộ chính phủ 2 nước, và những người đứng đầu chính phủ của cả Anh và Pháp vẫn chủ trương giải quyết vấn đề với nước Đức Quốc xã thông qua các biện pháp ngoại giao hơn là dùng vũ lực. Do chính phủ Anh-Pháp tin rằng hòa bình vẫn sẽ còn kéo dài nên không ra lệnh tác chiến, quân đội 2 nước đã không ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Tại tuyến phía Tây do quân Anh - Pháp đóng có ưu thế tuyệt đối, nhưng lại án binh bất động. Pháo binh quân Anh-Pháp ở bên này sông Rhine vẫn im lặng nhìn những đoàn xe quân Đức vận chuyển vũ khí qua lại ở bên kia sông. Các trạm đóng quân dọc biên giới của Pháp ở phía Tây vẫn án binh bất động, binh sĩ chơi bài, đá bóng và còn có các hoạt động văn hóa, thể thao để giết thời gian. Thủ tướng Pháp thậm chí còn phát cho binh lính một vạn quả bóng để chơi. Cuộc “chiến tranh kỳ quái” cứ tiếp diễn (xem Cuộc chiến Cuội).

Mặc dù chiến sự trên đất liền giai đoạn này đã diễn ra im ắng, trên biển đã cho thấy tình hình ngược lại. Nước Anh đã bắt đầu một cuộc phong tỏa hải quân đối với Đức, nhằm phá hủy nền kinh tế và nỗ lực gây chiến của đất nước này[56]. Biện pháp này tỏ ra không hiệu quả, bởi khác với Thế chiến 1, lần này Đức có thể kiếm được tài nguyên từ các vùng mới bị chiếm đóng. Đức cũng đáp trả lại bằng cách sử dụng hạm đội tàu ngầm U-boat tấn công các tàu buôn và tàu chiến của Anh và Pháp, kết quả dẫn đến Trận chiến Đại Tây Dương giữa hai phe mà đã kéo dài đến tận khi kết thúc cuộc chiến tranh.


Con đường Raate, xe tăng và binh sĩ Liên Xô bị quân Phần Lan phục kích trong mùa đông khắc nghiệt.

Bộ binh Đức tấn công tại một ngôi làng đang cháy của Na Uy.

Ngay sau chiến dịch Ba Lan, để củng cố biên giới phía Tây chuẩn bị cho chiến tranh với Đức, Liên Xô bắt đầu tiến quân vào các nước cộng hòa gần biển Baltic. Tại 3 nước Baltic, quân đội Liên Xô không gặp kháng cự đáng kể, nhưng Phần Lan thì phản kháng quyết liệt, dẫn đến Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan vào ngày 30 tháng 11 cho đến tháng 3 năm 1940. Cũng vào lúc này, Đức và các nước Đồng Minh Tây phương đang trải qua một sự yên tĩnh buồn cười, với việc hai phía tuyên chiến với nhau nhưng không bên nào chịu ra tay trước. Sự yên tĩnh này kết thúc khi Đức mở Chiến dịch Weserübung xâm lược Đan Mạch và Na Uy nhằm bảo vệ con đường vận chuyển quặng sắt từ Thụy Điển tới Đức [57] Đan Mạch nhanh chóng đầu hàng quân Đức chỉ sau vài giờ chiến đấu. Ở Na Uy thì quân Đức gặp nhiều khó khăn hơn khi Anh điều một lực lượng lớn tới đây trợ giúp Na Uy,
và phải mất hai tháng để Đức chiếm đóng hoàn toàn được quốc gia trung lập này. Thất bại trong việc cứu Na Uy khiến cho Thủ tướng Anh Neville Chamberlain bị thay thế bởi Winston Churchill vào ngày 10 tháng 5 năm 1940.

Sau khi thôn tính các nước Bắc Âu, Hitler phát động chiến dịch tấn công nước Pháp, mở đầu là Kế hoạch Manstein xâm chiếm các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg. Những cuộc tấn công vào ba nước này đã diễn ra rất nhanh chóng và Đức giành thắng lợi vang dội. Người Đức đã huy động vào mặt trận này 3.350.000 quân, nhiều hơn bất kỳ mặt trận nào khác cho tới thời điểm đó. Phía liên quân Anh-Pháp có 3,3 triệu quân, lực lượng 2 bên khá tương đương. Tuy nhiên, các chỉ huy Anh-Pháp vẫn duy trì lối tư duy về chiến tranh chiến hào của thế chiến thứ nhất, do vậy họ tập trung lực lượng về phòng tuyến Maginot với dự định dựa vào hệ thống công sự vững chắc để chặn đứng quân Đức tại đây, sau khi Đức thiệt hại nặng thì sẽ chuyển sang phản công, đúng như diễn biến trong Thế chiến thứ nhất.


Quân Đức diễu hành chiến thắng tại Khải Hoàn Môn, Paris ngày 14 tháng 6.

Thực tế cho thấy đây là một sai lầm chiến lược rất tai hại của liên quân Anh-Pháp. Quân Đức với học thuyết chiến tranh chớp nhoáng đã sử dụng lực lượng thiết giáp đi vòng qua phòng tuyến Maginot, thọc sâu vào hậu phương của Pháp và bao vây luôn khối quân Anh-Pháp đang tập trung ở phòng tuyến này. Do quân chủ lực Anh-Pháp đang tập trung ở phòng tuyến Maginot nên quân Đức tiến nhanh vào lãnh thổ Pháp mà không găp kháng cự đáng kể, các cuộc phản công của Anh-Pháp nhằm chặn đứng quân Đức đều thất bại nhanh chóng. Chính phủ Pháp bỏ chạy khỏi thủ đô Paris, điều này lại càng làm tăng thêm sự hoảng loạn đối với toàn quân đội Pháp.

Với chiến lược khôn khéo cộng với những sai lầm của Anh-Pháp, quân Đức nhanh chóng đánh bại đối phương. Trong vòng một tháng, chính phủ Pháp tuyên bố đầu hàng, trong khi lực lượng Anh phải lên tàu chạy khỏi nước Pháp. Ngày 10 tháng 6, Ý, với ý định thâu chiếm lãnh thổ, tuyên chiến với Pháp (nay đã tê liệt). Chỉ trong hơn 1 tháng, quân Đức đã tiêu diệt hoặc bắt làm tù binh 2,2 triệu quân Anh và Pháp. Ngoài ra, 340.000 quân Anh-Pháp bị bao vây ở Dunkirk, đã phải vứt bỏ lại vũ khí, lên tàu bỏ chạy khỏi Pháp về Anh. Để có thắng lợi rất lớn này, quân Đức chỉ bị thiệt hại 156.000 người (trong đó 46.000 tử trận và 110.000 bị thương). Đây là một trong những chiến dịch quân sự thắng lợi lớn nhất trong thế kỷ 20.

Ngày 14 tháng 6, quân Đức chiếm được thủ đô Paris của Pháp. Đến cuối tháng 6, chính phủ Pháp đã đầu hàng theo Hiệp định Compiègne lần thứ hai, bị lực lượng Đức chiếm đóng hầu hết lãnh thổ, Ý cũng được hưởng một phần, 1/4 lãnh thổ còn lại do chính quyền bù nhìn Vichy điều hành dưới sự khống chế của Đức. Sau khi chiến thắng, Đức cũng chiếm được rất nhiều nhà máy và đội ngũ công nhân lành nghề của Pháp, tiềm lực chiến tranh của Đức tăng rất nhiều.

Sau khi chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức, tướng Pháp Charles de Gaulle chạy sang London và tập hợp tổ chức có tên gọi là "Nước Pháp Tự do", thành lập chính phủ Pháp lưu vong, ra lời kêu gọi tất cả người Pháp ở trong nước cũng như ở hải ngoại tiếp tục cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Đức Quốc xã.


Chiến tranh giữa Đức và Anh[sửa | sửa mã nguồn]


Sau khi Pháp sụp đổ, chỉ còn Anh đơn độc chống lại Đức. Lục quân Đức rất mạnh nhưng bị ngăn cách với nước Anh bởi eo biển nên không thể tấn công được. Ngày 10/5/1940, Anh xâm chiếm Iceland và Đảo Faroe để tránh việc Đức được đặt căn cứ quân sự tại đây. Để tránh việc hạm đội mạnh của Pháp được Hitler trưng dụng để tấn công Anh, ngày 3 tháng 7 năm 1940, Không quân và hải Quân Anh đã dội bom vào hạm đội Pháp (vốn là đồng minh của họ chỉ 2 tháng trước đó, nay thuộc về Chính phủ Vichy bù nhìn của Đức) neo đậu tại cảng Mers-el-Kebir ở Algérie, đánh chìm nhiều tàu và khiến hàng ngàn thủy thủ Pháp thương vong.

Đức khởi đầu một cuộc tấn công hai nhánh vào Anh. Nhánh thứ nhất là những cuộc hải chiến trên Đại Tây Dương giữa các tàu ngầm, nay có thể sử dụng các cảng tại Pháp, và Hải quân Hoàng gia Anh. Các tàu ngầm được Đức dùng để tiêu diệt các đoàn tàu vận tải đưa hàng hóa về Anh theo đường biển. Nhánh thứ hai là một cuộc không chiến trên bầu trời Anh khi Đức dùng Không quân của họ để tiêu diệt Không quân Hoàng gia Anh, qua đó tận dụng ưu thế không gian để thực hiện Chiến dịch Sư tử biển nhằm đổ bộ lên nước Anh. Cuộc chiến đấu trên không tại Anh Quốc giữa hai lực lượng Luftwaffe của Đức và RAF của Anh hay còn được biết đến với cái tên Trận chiến nước Anh là chiến dịch quân sự lớn đầu tiên được thực hiện hoàn toàn bằng lực lượng không quân.[60]

Trước đó, chưa bao giờ có cuộc oanh tạc và đụng độ trên không lâu dài và ác liệt như thế. Sau gần 4 tháng, không quân 2 bên đều bị thiệt hại lớn (Anh mất 1.744 máy bay, Đức mất 1.977 máy bay[61]). Không quân Đức sau cùng đã phải dừng chiến dịch trước sức chiến đấu của không quân Anh và sức chịu đựng dũng cảm của nhân dân Anh. Ở trên biển, kết quả khả quan hơn cho Đức, đội tàu ngầm Đức đánh chìm hàng ngàn tàu chở hàng của Anh, khiến lương thực và nguyên liệu nhập khẩu của Anh bị sụt giảm nghiêm trọng, nhưng chưa đủ để Anh phải đầu hàng. Nền Đệ tam Đế chế Đức đã không thể hoàn thành được mục tiêu của mình: nước Anh vẫn tiếp tục chiến đấu dù trong tình trạng suy sụp về rất nhiều mặt.

Cho đến lúc này, thái độ của Mỹ vẫn là đứng ngoài cuộc và không muốn can dự vào chiến tranh. Nước Anh, với việc Pháp đã sụp đổ, đã quay sang cầu cứu sự giúp đỡ của Mỹ. Hoa Kỳ cho Anh mượn (trên thực tế là bán) 50 chiếc khu trục hạm cũ kỹ cho Anh với điều kiện Anh sẽ cho Hoa Kỳ thuê trong 99 năm các căn cứ tại Newfoundland, Bermuda và West Indies. Giao kèo bán tàu này rất có lợi cho Mỹ bởi các tàu khu trục này không có mấy giá trị đối với họ, trong khi đổi lại họ lại có được các căn cứ quân sự quan trọng trên Đại Tây Dương nhằm mở rộng ảnh hưởng ở Mỹ Latinh, đồng thời ngăn chăn được khả năng Đức sẽ chiếm các căn cứ này làm bàn đạp để tấn công lãnh thổ của Hoa Kỳ nếu như chẳng may Anh đầu hàng Đức.[62]

Tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố sẽ giúp Anh và Liên Xô về trang bị nhưng nước Mỹ sẽ không tham chiến, ngay cả các cố vấn chính phủ còn cho rằng Anh sẽ thua Đức và tốt nhất là chỉ nên bán vũ khí cho Anh chứ không nên tham chiến. Đạo luật lend-lease (cho vay - cho thuê) thông qua tháng 11/1941 cho phép Tổng thống Roosevelt cung cấp mọi tài sản cần thiết cho chiến tranh, từ thực phẩm, vũ khí tới các dịch vụ khác cho các nước đang tham chiến nếu thấy có lợi cho an ninh của Hoa Kỳ, đi kèm theo là những đòi hỏi về những khoản lợi kinh tế - chính trị như việc cho Mỹ thuê các hải cảng hoặc các căn cứ quân sự. Việc này trên thực tế đã vi phạm quy tắc trung lập của Hoa Kỳ, nhưng khi chứng kiến chiến tranh ngày một leo thang ở châu Âu, đa số dân chúng trong nước đã ủng hộ Đạo luật dù họ phản đối việc đưa quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến .

Tháng 6/1941, khi Đức tấn công Liên Xô, Phó Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã tuyên bố rằng:


Nếu chúng ta thấy Đức chiến thắng thì chúng ta phải giúp người Nga, và nếu Nga chiến thắng thì chúng ta phải giúp người Đức, và theo cách đó cứ để họ giết nhau càng nhiều càng tốt, mặc dù tôi không muốn nhìn thấy Hitler chiến thắng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.[64]

Chiến trường Địa Trung Hải[sửa | sửa mã nguồn]


Quân Anh ở mặt trận Bắc Phi (được dàn dựng lại để chụp ảnh)

Ngày 27/9/1940, Đức, Italia và Nhật đã ký hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Berlin. Hiệp ước này trước hết nhằm chống Liên Xô, nhưng còn chống cả Anh, Mĩ. Hiệp ước đề ra không úp mở việc phân chia thế giới: Đức, Italia ở châu Âu và châu Phi; Nhật ở vùng Viễn Đông (tức châu Á).

Đức cũng đã lợi dụng những mâu thuẫn giữa các nước vùng Balkan để lôi kéo các nước này làm chư hầu của mình. Ở Hội nghị Viên tháng 8/1940, Đức và Italia đã yêu cầu Romania cắt vùng Transivalnia giao cho Hungaria và hứa với Rumani sẽ đền bù cho nước này bằng đất đai chiếm được của Liên Xô. Đức lại giúp lực lượng thân Đức ở Rumani làm chính biến, đưa những phần tử chống Liên Xô lên nắm chính quyền, do tướng Antonesscu cầm đầu. Với sự thỏa thuận của Antonesscu, ngày 7/10/1940, quân đội Đức kéo vào Rumani. Sau đó, lần lượt Hungari, Rumani và Slovakia đều tuyên bố tham gia Hiệp ước Béclin (tháng 11/1940). Tháng 3/1941, chính phủ Bulgaria cũng tham gia hiệp ước Béclin và để cho quân đội Đức kéo vào nước mình, đồng thời cam kết góp quân cùng Đức tấn công Liên Xô.

Mussolini tỏ ra ghen tị với những thành công của Hitler ở mặt trận phía Tây, cho nên trong khi Đức đang tập trung lực lượng đánh Anh, Ý đã mở cuộc tấn công Hy Lạp vào ngày 28 tháng 10 năm 1940 . Cuộc tấn công này hoàn toàn thất bại: Hy Lạp chẳng những đánh lui Ý trở lại Albania, mà còn tham chiến theo phía Đồng Minh (trước đó Hy Lạp trung lập), cho phép Anh đổ bộ tại nước này để viện trợ và phòng thủ.

Trong khi Ý đang đương đầu với Hy Lạp, nước Nam Tư láng giềng bị một cuộc đảo chính vào ngày 27 tháng 3 năm 1941. Người Nam Tư trục xuất chính quyền thân Đức đã ký Hiệp ước Ba Bên chỉ ba ngày trước, đồng thời ký hiệp ước thân thiện và không xâm phạm với Liên Xô ngày 5/4/1941. Trước tình hình đó. Hitler phải ra lệnh hoãn việc thực hiện kế hoạch Barbarossa xâm chiếm Liên Xô và quyết định đè bẹp Nam Tư và Hy Lạp trước. Kế hoạch được đặt ra và Đức mở cuộc tấn công cả hai nước Nam Tư và Hy Lạp vào ngày 6 tháng 4. Không quân Đức dội bom xuống thủ đô Nam Tư và 56 sư đoàn Đức cùng chư hầu tràn vào Nam Tư. Chính phủ Nam Tư bỏ chạy sang Ai Cập. Cùng ngày đó, quân Đức cũng mở cuộc tấn công vào Hy Lạp. Quân đội Hy Lạp phải đầu hàng, quân đội Anh đóng ở Hy Lạp cũng bị đánh bật và phải chạy ra biển sau trận đánh tại trận Crete. Mặc dù chiến thắng của quân Đức tại Balkan đã diễn ra cực kì chóng vánh, họ vẫn phải đối mặt với phong trào du kích của các lực lượng yêu nước tại đây chống lại ách cai trị của Phát xít. Phong trào du kích diễn ra mạnh mẽ nhất ở Nam Tư, đã kéo dài liên tục kể từ thời điểm Đức chiếm đóng cho đến tận khi Liên Xô giải phóng Đông Âu vào năm 1944.

Như vậy,chỉ sau 1 năm, Đức có thêm 5 nước chư hầu ở khu vực Balkan và Địa Trung Hải mà gần như không cần phải nổ súng, lực lượng phe Đức được tăng cường thêm gần 1 triệu quân từ các nước này. Không chỉ vậy, Đức còn có thêm nhiều mỏ tài nguyên tại các nước này (đặc biệt là những mỏ dầu ở Romania). Hitler cho rằng các điều kiện để tấn công Liên Xô đã chín muồi.


Mở màn chiến dịch Bắc Phi[sửa | sửa mã nguồn]


Tướng Erwin Rommel và Quân đoàn Phi Châu ở Bắc Phi

Một xe tăng Matilda của Anh với lá cờ lấy được của Ý tại Bắc Phi

Vào tháng 8 năm 1940, với lực lượng lớn của Pháp tại Bắc Phi chính thức trung lập trong cuộc chiến, Ý mở một cuộc tấn công vào thuộc địa Somalia của Anh tại Đông Phi. Đến tháng 9 quân Ý tấn công Ai Cập (cũng đang dưới sự kiểm soát của Anh). Cả hai cuộc xâm lược này đều thất bại sau khi lực lượng Anh đẩy Ý ra khỏi cả hai khu vực và chiếm được nhiều thuộc địa Ý, trong đó có Đông Phi thuộc Ý và Libya.

Với sự thất bại của Ý, và thấy phe Trục có nguy cơ bị đẩy khỏi toàn bộ Châu Phi, Đức gửi Quân đoàn Phi châu dưới sự chỉ huy của Erwin Rommel đến Libya để tăng viện cho đồng minh của mình vào tháng 2 năm 1941. Đơn vị này, cùng với quân Ý, đã đánh các trận ác liệt ven bờ biển Cyrenaica với lực lượng Anh vào năm 1941 và 1942. Cùng với trận chiến này, Hải quân Hoàng gia Anh và Regia Maria của Ý cũng đánh nhau để giành tuyến đường tiếp tế trên Địa Trung Hải, điển hình là trận đấu tại căn cứ quan trọng tại Malta.

Lúc đầu Đức chú trọng đến mặt trận Bắc Phi vì muốn chiếm kênh đào Suez và cắt đứt những đường giao thông chính của Anh với các thuộc địa. Với một sư đoàn thiết giáp Đức, một sư đoàn thiết giáp Ý và một sư đoàn bộ binh Ý, vào cuối tháng 3 năm 1941, quân Đức tiến công. Trong vòng 12 ngày, Đức chiếm được tỉnh Cyrenaica và tiến đến Bardia, đồng thời bao vây Tobruk, đuổi quân Anh chỉ còn cách biên giới Ai Cập vài km. Quân Anh bị thua liên tiếp, vị thế của Anh ở Ai Cập và Kênh đào Suez bị đe dọa, và vị thế ở Địa Trung Hải cũng bị nguy hiểm vì sự hiện diện của quân Đức tại Hy Lạp.

Quân Đức ở Bắc Phi thúc giục Hitler nên khai thác tình hình, cho tăng viện thêm để tổng tấn công ở Ai Cập và vùng Kênh đào Suez. Nhưng Hitler đã quyết định mọi nguồn lực phải dồn cho chiến dịch tiêu diệt Liên Xô. Hitler chỉ gửi đến Bắc Phi một phái bộ quân sự và chút ít vũ khí, ngoài ra không làm gì thêm. Hitler trả lời là chỉ xét đến mặt trận Bắc Phi sau khi đã đánh bại Liên Xô. Chiến sự sau đó đã diễn ra ở thế giằng co quyết liệt, cả hai bên đều tung ra những đợt tấn công nhằm kết liễu đối phương nhưng đều không đạt được kết quả.

Trong lúc đó, tại Trung Đông, lực lượng Đồng Minh tấn công vào Syria và Liban, hai khu vực đang dưới sự kiểm soát của Pháp, cũng như Iraq, nơi chính quyền có thiện cảm với Đức. Việc này giúp lực lượng Đồng Minh củng cố quyền lực trong khu vực này.


Mặt trận phía đông[sửa | sửa mã nguồn]


Đức tấn công Liên Xô[sửa | sửa mã nguồn]

Sau 5 năm, Đức đã thôn tính xong 11 nước châu Âu với diện tích gần 2 triệu km2, dân số 142 triệu người, phát xít Đức đã chiếm được những vị trí có ý nghĩa chiến lược hết sức quan trọng về kinh tế, quân sự và lực lượng trở nên rất hùng mạnh. Hầu như toàn bộ Tây Âu và Trung Âu (trừ Thụy Sĩ, Thụy Điển, Bồ Đào Nha và Anh) đã thuộc về Đức mà không vấp phải trở ngại hoặc tổn thất gì đáng kể. Tiếm lực công nghiệp quân sự của Đức cũng tăng thêm nhiều lần nhờ trưng dụng các mỏ tài nguyên, nhà máy công nghiệp, hàng chục triệu nhân công... tại các nước bị Đức chiếm đóng. Trong bối cảnh thuận lợi này, Đức Quốc xã quyết định tiến đánh Liên Xô với mục tiêu nhằm tiêu diệt Nhà nước Xô Viết, kẻ thù số l của phe Trục, đồng thời giành lấy những lãnh thổ và tài nguyên bao la của Liên Xô.

Cuộc tấn công kịch liệt nhất trong cuộc chiến tranh này xảy ra vào tháng 6 năm 1941, khi Đức bất ngờ cắt đứt thỏa thuận không xâm lược với Liên Xô và tiến hành chiến dịch Barbarossa, một kế hoạch tấn công khổng lồ nhất trong lịch sử. Quân đội phát xít Đức và chư hầu huy động 190 sư đoàn (trong đó gồm 152 sư đoàn Đức, 38 sư đoàn các nước chư hầu (gồm Ý, Romania, Bulgaria, Hungary, Phần Lan, Slovakia, Croatia, Vichy Pháp) với tổng quân số trên 5 triệu người (4.300.000 quân Đức và 750.000 quân các nước chư hầu), tập trung dọc theo hơn 2.900 km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía Bắc đến bờ biển Đen phía nam[66]. Một số lượng khổng lồ phương tiện chiến tranh được triển khai gồm khoảng 5.000 xe tăng và pháo tự hành, 3.400 xe thiết giáp, 600.000 xe cơ giới các loại, 47.000 pháo và súng cối, 4.940 máy bay các loại và khoảng 300 tàu chiến (trong đó có 105 tàu khu trục, 86 tàu ngầm các loại), với mục tiêu chiếm Moskva trước cuối năm. Chiến tranh Xô-Đức bắt đầu.


Hồng quân Liên Xô tiến ra mặt trận. Bảng trên cây bên trái ảnh có ghi dòng chữ: "Chính nghĩa thuộc về chúng ta. Kẻ thù sẽ bị tiêu diệt. Chiến thắng sẽ nằm trong tay chúng ta"
Hồng quân Liên Xô tiến ra mặt trận, Moscow 23/6/1941. Bảng bên trái ghi dòng chữ: "Chính nghĩa thuộc về chúng ta. Kẻ thù sẽ bị tiêu diệt. Chiến thắng sẽ thuộc về chúng ta"

Để thực hiện kế hoạch Barbarossa, nước Đức đã huy động 3/4 quân đội Đức cùng với quân đội nhiều nước đồng minh với Đức tại châu Âu, chỉ để lại 1/4 quân số và phương tiện tại Tây Âu và Bắc Phi[66]. Trong khi đó, Hồng quân Liên Xô có 141 sư đoàn với 3,2 triệu quân đóng ở các khu vực phía Tây chống lại quân Đức. So với Hồng quân, quân Đức chiếm ưu thế cả về quân số lẫn kinh nghiệm tác chiến.

Khác với những cuộc chiến trước, kế hoạch xâm lược của Đức bao gồm cả việc tiêu diệt thường dân Nga tại các địa phương chiếm đóng. Chỉ thị ngày 12/5/1941 của Bộ chỉ huy tối cao Đức yêu cầu sĩ quan, binh lính Đức “Hãy nhớ và thực hiện: - Không có thần kinh, không có trái tim và sự thương xót - anh được chế tạo từ sắt, thép Đức… Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ hãy giết bất kì người Nga nào và không được dừng lại, dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai. Chúng ta phải bắt thế giới đầu hàng… anh là người Đức, và là người Đức phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh".

Chiến dịch Barbarossa được dự định sẽ đánh bại triệt để Liên Xô chỉ trong 2-3 tháng. Trong những ngày đầu của cuộc xâm lược, với ưu thế áp đảo của quân Đức, nhiều người cho rằng Liên Xô sẽ thất bại còn sớm hơn thế. Khi xe tăng và quân Đức tiến sâu lãnh thổ của Liên Xô trong một cuộc tấn công gồm ba mũi đột kích, hầu hết các nhà phân tích nước ngoài bắt đầu dự đoán rằng Liên Xô sẽ thất bại chỉ sau vài tuần hoặc thậm chí vài ngày[67].

Vào ngày 03/07/1941, 11 ngày sau khi Đức xâm lược Liên Xô, Ivan M. Maisky, Đại sứ Liên Xô tại Anh, đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao Anh Anthony Eden để thảo luận tình hình quân sự và hai nước chính thức hợp tác chống lại kẻ thù chung. Maisky khẳng định rằng tấn công Liên Xô là sai lầm lớn nhất của Hitler, và rằng “Nước Nga vĩ đại sẽ không thể bị đánh bại”[68]

Trong giai đoạn đầu, các lực lượng Đức tiến lên nhanh chóng do lợi thế từ yếu tố bất ngờ, ưu thế về quân số và trang bị, kinh nghiệm dày dạn của binh sĩ Đức, cộng với những yếu kém và sai lầm trong điều binh của các chỉ huy Liên Xô, quân Đức đã bắt giữ được hoặc tiêu diệt khoảng 3 triệu binh sĩ Xô Viết. Quân Đức tiến được một khoảng cách khá xa, nhưng cuối cùng vẫn không hoàn thành được mục tiêu. Không giống như ở Pháp, Hồng quân dù bị bao vây nhưng vẫn chiến đấu, tử thủ với quyết tâm rất cao để kìm chân đối phương khiến lực lượng Đức bị tổn thất hơn 1 triệu quân sau 5 tháng chiến đấu. Đối với Đức, thắng lợi đã không còn dễ dàng như dự đoán ban đầu của họ. Một sĩ quan Đức viết trong nhật ký: "Chúng tôi không còn cảm giác phiêu lưu khi tiến vào một quốc gia bại trận như hồi ở Pháp, thay vào đó chúng tôi gặp phải sự kháng cự,một sự kháng cự không ngừng nghỉ bất kể chuyện ấy có vô vọng đến đâu chăng nữa".


Bước ngoặt tại Moscow và Stalingrad[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 10/1941, Bộ chỉ huy Đức tập trung mọi sức lực để mở cuộc tấn công vào hướng Mátxcơva với hi vọng chiếm được thủ đô Mátxcơva để kết liễu Liên Xô. Với mật danh là "Bão táp", Hitler đã huy động 80 sư đoàn, trong đó có 23 sư đoàn xe tăng và cơ giới (khoảng hơn 1,8 triệu quân) và gần 1000 máy bay vào trận đánh Mátxcơva. Trong nhật lệnh ngày 2/10/1941, ngày mở đầu cuộc tấn công Mátxcơva, Hitler quyết định ngày 7/11/1941 sẽ chiếm xong Mátxcơva và duyệt binh chiến thắng tại Hồng trường, ông ta tin rằng ban lãnh đạo Liên Xô sẽ phải bỏ chạy khỏi Thủ đô như chính phủ Ba Lan, Pháp, Nam Tư... đã làm. Tuy nhiên, Hội đồng quốc phòng Liên Xô do Đại Nguyên soái Stalin đứng đầu vẫn ở lại Mátxcơva, trực tiếp lãnh đạo việc bảo vệ thủ đô. Trong đợt tấn công ác liệt và đẫm máu tháng 10, quân Đức tiến được từ 230 km, nhưng lực lượng bị tổn thất nghiêm trọng, kế hoạch thôn tính Mátxcơva trong giữa tháng 10 bị đổ vỡ. Ngày 15/11/1941, bộ chỉ huy quân Đức lại mở đợt tấn công thứ hai vào Mátxcơva, nhưng tất cả các mũi đột phá đều lần lượt bị bẻ gẫy.


Một nhóm Quân đội Đức Quốc xã hạ vũ khí đầu hàng Quân đội Liên Xô tại khu vực Moskva ngày 20 tháng 12 năm 1941

Đến tháng 12, quân Đức đã bị tiêu hao quá nhiều trong chiến đấu. Khi mùa đông đến, ưu thế về kinh nghiệm tác chiến của Đức đã mất và chuyển sang phía Hồng Quân: binh lính Liên Xô được huấn luyện kỹ năng tác chiến mùa đông (trượt tuyết, ngụy trang, giữ ấm cơ thể...) tốt hơn hẳn so với lính Đức. Khi thời cơ thích hợp đã đến, tướng Georgi Konstantinovich Zhukov phát động cuộc phản công. Dọc phòng tuyến dài 360 km trước Moskva, Liên Xô tung ra 7 tập đoàn quân và 2 quân đoàn kỵ binh – tổng cộng 100 sư đoàn với khoảng 80 vạn quân – gồm những binh sĩ còn sung sức và đã dày dạn trận mạc. Cuộc phản công của Liên Xô với những lực lượng dự bị tinh nhuệ đã đánh bật Đức ngay tại ngoại ô Moskva. Hơn nửa triệu quân Đức đã bị tổn thất trong chiến dịch tấn công thất bại vào Moscow.

Lần đầu tiên sau 6 năm chiến tranh, các đơn vị chủ lực của Đức Quốc xã phải chịu thất bại nặng. Hitler cách chức Tổng tư lệnh lục quân, tư lệnh Tập đoàn quân trung tâm, Tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2 và hàng chục tướng lĩnh khác. Chiến lược "chiến tranh chớp nhoáng" của Đức đã thất bại.



Tuy bị nhiều thất bại vào cuối năm 1941, nhưng Đức tái tấn công vào năm 1942. Lần này Đức tấn công vào phía Nam nhằm chiếm vùng sản xuất dầu mỏ chiến lược của Liên Xô, bởi nếu không có dầu thì nền công nghiệp quân sự của Liên Xô sẽ bị tê liệt. Chiến dịch Blau được Đức phát động với 102 sư đoàn gồm hơn 2 triệu quân, gần 2.600 xe tăng và pháo tự hành, được biên chế vào 6 tập đoàn quân Đức, 2 tập đoàn quân Romania, 1 tập đoàn quân Ý và 1 tập đoàn quân Hungary.

Sau 3 tháng tiến công liên tục, quân Đức tiến đến sát dãy núi Kavkaz, nhưng cũng như năm 1941, quân đội Liên Xô đã tử thủ tại Stalingrad nhằm chặn đứng đường tiến quân của Đức. Trong thời gian từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 9 năm 1942, chiến sự tại Stalingrad đã diễn ra đặc biệt ác liệt và đẫm máu cả trên mặt đất và trên không: cả hai bên đã chiến đấu hết sức dũng cảm và quên mình. Quân Đức một mặt theo lệnh của Führer (Lãnh tụ, tức Hitler) phải chiếm bằng được thành phố mang tên Stalin biểu tượng của quân thù, mặt khác họ hiểu được tầm quan trọng phải chiếm thành phố làm chỗ trú chân cho mùa đông đang đến gần. Quân Đức tiến công rất mãnh liệt và dũng cảm. Quân đội Xô Viết cũng tử thủ rất anh hùng và kiên cường vì họ đã được lệnh giữ thành phố bằng mọi giá, bởi mất Stalingrad thì coi như mất toàn bộ miền Nam nước Nga. Cuộc chiến ở đây là đỉnh cao không khoan nhượng, cả hai bên đều gần như không chấp nhận bắt tù binh. Trận đánh đã diễn ra vô cùng khốc liệt trong toàn thành phố: từng đống đổ nát, từng con đường, từng nhà máy, công xưởng, nhà kho, từng lầu gác đều phải đánh nhau đẫm máu giành đi giật lại nhiều lần. Các cống rãnh cũng là một chiến địa ác liệt nơi các binh sĩ quần nhau trong một mê hồn trận gồm những đường ống cống chằng chịt như mê cung. Phát xít Đức gọi kiểu chiến tranh trong thành thị (urban warfare) này là "chiến tranh chuột cống" (Rattenkrieg), nói một cách nửa đùa nửa thật rằng họ đã đánh chiếm xong nhà bếp trong khi đang phải vất vả giành giật phòng khách với quân địch. Trong một mớ bòng bong như vậy, tất cả các quy tắc của một trận đánh quy ước đều bị phá vỡ; lối tấn công quen thuộc của quân Đức - huy động một lượng lớn các binh đoàn cơ động hỗ trợ bởi tăng thiết giáp - bị thay thế bởi các trận đấu súng không kém phần ác liệt giữa các nhóm nhỏ binh sĩ giữa những đống gạch vụn ngổn ngang của những ngôi nhà, tòa công sở, tầng hầm và những tòa nhà nhiều tầng. Một số tòa nhà cao tầng - bị không quân Đức ném bom tơi tả - trở thành nơi xảy ra các trận giao chiến ác liệt kéo từ tầng này qua tầng khác: quân phát xít Đức và Hồng quân Xô Viết gần như trú đóng trong các tầng xen kẽ nhau và họ bắn nhau qua các lỗ hổng trên sàn và trần nhà.

Đến tháng 11 vào thời điểm mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đến, quân Đức tại Stalingrad đã bị sa lầy - họ không thể chiếm thành phố khi mà mùa đông đã tới, với lại họ ở quá xa các lực lượng tiếp ứng của mình. Tình hình quân Đức lúc này thực sự rất nguy ngập.

Khi quân Đức đã kiệt sức, Liên Xô lại tung ra đòn phản công với những đơn vị dự bị mạnh. Chiến dịch Sao Thiên Vương của Liên Xô đã huy động 3 phương diện quân với tổng binh lực lên tới 1,1 triệu quân, 1.463 xe tăng và pháo tự hành và 1.350 máy bay; đối diện là lực lượng Đức và chư hầu với hơn 1 triệu quân, 675 xe tăng và pháo tự hành, 1.216 máy bay. Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng Xô viết đã chọc thủng chiến tuyến Đức, hợp vây hoàn toàn 22 sư đoàn đối phương, một bộ phận của tập đoàn quân xe tăng số 4 và toàn bộ tập đoàn quân số 6 Đức. Tổng cộng khoảng 33 vạn quân Đức đã rơi vào vòng vây siết chặt và bị tiêu diệt tại Stalingrad. Các bộ phận còn lại của quân Đức vội vã tháo lui khỏi miền nam Liên Xô để tránh bị bao vây, mục tiêu của Đức là đánh chiếm vùng sản xuất dầu mỏ chiến lược của Liên Xô đã phá sản.

Trận Stalingrad được coi là bước ngoặt trong thế chiến thứ 2. Binh lực phe Đức bị tiêu diệt trong trận này tới hơn 1 triệu lính, nhiều hơn bất cứ chiến dịch nào khác trong thế chiến 2. Sau trận Stalingrad, binh lực của Đức trở nên suy yếu nghiêm trọng và buộc phải chuyển từ thế tấn công sang thế phòng ngự, còn Liên Xô chuyển sang thế chủ động phản công. Trong 4 tháng 20 ngày, dù gặp những điều kiện khó khăn của mùa đông, quân đội Xô viết đã tiến sâu về phía tây khoảng 600 km trên một chiến tuyến dài gần 2000 km, đánh đuổi quân Đức ra khỏi những vùng có tầm quan trọng lớn về kinh tế và chiến lược.


Liên Xô phản công[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa hè năm 1943, tại trận Vòng cung Kursk, Đức đã tung ra những đơn vị thiết giáp lớn hòng xoay chuyển tình thế, Kursk trở thành "trận đấu xe tăng lớn nhất" trong lịch sử thế giới, giữa gần 3.000 xe tăng - pháo tự hành của Đức và khoảng 5.000 xe về phía Liên Xô. Tại đây, Liên Xô tiếp tục tiêu diệt nhiều đơn vị tinh nhuệ của Đức, nhất là các đơn vị thiết giáp, khiến mục tiêu xoay chuyển tình thế của Đức bị tiêu tan.

Từ đó cho đến khi hết chiến tranh, quân Liên Xô giữ thế chủ động và phát động tấn công liên tục trên khắp các mặt trận, trong khi Đức bị đẩy vào thế bị động đối phó.

Cuối tháng 8 năm 1943, ngay sau trận Kursk, Hồng quân triển khai chiến dịch tấn công chiến lược tại cánh nam chiến trường Xô – Đức nhằm giải phóng Ukraina, đó là trận đánh sông Dnepr. Quân Đức phòng thủ tại khu vực này có 62 sư đoàn, trong đó 14 sư đoàn xe tăng và cơ giới, gồm khoảng hơn 1,2 triệu quân, 13.000 pháo và súng cối, 2.100 xe tăng và pháo tự hành, 2.100 máy bay. Để chọc thủng tuyến phòng thủ sông Dnepr của Đức, Liên Xô huy động lực lượng tới 2,6 triệu quân, hơn 51.200 pháo và súng cối, 2.500 xe tăng và gần 3.000 máy bay của 5 phương diện quân. Sau 4 tháng tiến công, đến cuối tháng 12 năm 1943, Hồng quân đã giành thắng lợi, giải phóng hoàn toàn nửa phía đông lãnh thổ Ukraina. Đây là lần đầu tiên một chiến dịch tổng tấn công chiến lược rất lớn vào mùa hè của Hồng quân Xô Viết đã thắng lợi, nó cho thấy trình độ tác chiến mùa hè của Liên Xô đã đạt mức tương đương so với quân Đức.

Đầu năm 1944, các lực lượng vũ trang Xô viết đã vượt quân Đức 1,3 lần về quân số, 1,7 lần về máy bay (quân Đức và quân các nước chư hầu có ở mặt trận Xô - Đức gần 5 triệu quân, 57.500 pháo và cối, 5.500 xe tăng và hơn 3.000 máy bay). Chất lượng vũ khí, đặc biệt quan trọng là tinh thần chiến đấu của quân đội, nghệ thuật chỉ huy chiến dịch, chiến thuật và chiến lược của các cấp chỉ huy Liên Xô ngày càng cao. Tỉnh hình này cho phép Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô có thể triển khai cuộc tổng tấn công đồng loạt trên khắp các mặt trận từ Leningrad đến tận Crimea, mở đầu từ ngày 24/12/1943.


Thiếu tá, chính trị viên Alexey Gordeyevich Eremenko, tiểu đoàn trưởng thuộc Trung đoàn 220, Sư đoàn bộ binh 4 dẫn đầu đội hình xung phong của Hồng quân tại Voroshilovgrad ngày 12/6/1942. Eremenko đã hy sinh chỉ vài phút sau khi bức ảnh được chụp. Bức ảnh này được coi là biểu tượng cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống phát xít Đức

  • Ở mặt trận phía bắc, tháng 1 và 2/1944, Hồng quân phản công ở Leningrad, giải vây thành phố này sau 900 ngày chiến đấu kiên cường với quân Đức, kết thúc chiến dịch bao vây kéo dài nhất trong lịch sử chiến tranh [69]. Cùng thời điểm Hồng quân tiến sát tới biên giới Estonia. Đến mùa hè năm 1944, Hồng quân tiến vào giải phóng các nước vùng Baltic, đánh đuổi quân Phần Lan ra khỏi biên giới và buộc Phần Lan phải ký hiệp định đình chiến với Liên Xô ngày 19/9/1944.

  • Ở mặt trận Ucraina, trong năm 1944, Hồng quân đã mở 10 chiến dịch tấn công có tính chất tiêu diệt. Cuộc chiến đấu ở đây diễn ra hết sức ác liệt vì phần lớn lực lượng quân Đức tập trung ở vùng này (96 sư đoàn với 70% tổng số các sư đoàn xe tăng và các sư đoàn cơ giới của Đức ở mặt trận Liên Xô). Kết quả, Hồng quân đã đánh tan 66 sư đoàn Đức và giải phóng hoàn toàn Ucraina.

  • Ở mặt trận Crimea, từ tháng 3 đến tháng 5/1944, quân đội Xô viết giải phóng Odessa và Crimea.

  • Ở mặt trận trung tâm, chiến dịch Bagration mở ngày 23/6/1944. Liên Xô huy động 4 phương diện quân với tổng binh lực 2,4 triệu quân, 36.000 pháo và súng cối, 5.000 xe tăng và pháo tự hành, 5.000 máy bay. Lực lượng phòng thủ của Đức tại đây là Cụm Tập đoàn quân Trung tâm với 34 sư đoàn với 1 triệu quân, 1.330 xe tăng và pháo tự hành, 10.090 pháo và súng cối, hơn 1.000 máy bay. Sau 2 tháng tiến công, Hồng quân Liên Xô đã đánh tan Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức, tiêu diệt hơn 30 sư đoàn Đức với hơn 500.000 quân, Belarus được hoàn toàn giải phóng. Cụm Tập đoàn quân Bắc của Đức với gần 300.000 quân cũng bị dồn vào mũi đất Courland và bị cô lập hoàn toàn. Chiến dịch Bagration đã "đập nát mặt trận trung tâm" của quân Đức, kết cục của chiến tranh gần như đã được định đoạt sau chiến dịch này.

Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giành lại được hầu hết số lãnh thổ bị Đức chiếm đóng và liên tục đẩy lùi lực lượng ngày càng suy yếu của Đức về phía tây. Sau chiến dịch Bagration, Quân đội Xô Viết phát động liên tiếp các đòn tấn công chiến lược để giải phóng những phần đất còn lại đang bị Đức chiếm đóng:


  • Chiến dịch Lvov–Sandomierz từ 13 tháng 7 đến 29 tháng 8 năm 1944, phương diện quân Ukraina 1 với lực lượng 2 tập đoàn quân xe tăng, 7 tập đoàn quân bộ binh (tổng cộng 1.200.000 lính, 1.979 xe tăng, 11.265 khẩu pháo) đã đánh tan cụm tập đoàn quân Bắc Ukraina của Đức (có 900.000 quân, 800 xe tăng, 6.300 đại bác và súng cối).

  • Chiến dịch Iaşi-Chişinău từ 20 đến 29 tháng 8 năm 1944: Chỉ trong 9 ngày, hai phương diện quân Xô Viết (có tổng cộng 1.341.000 lính, 1.874 xe tăng và pháo tự hành) đã tiêu diệt cụm tập đoàn quân Nam Ukraina của liên quân Đức – Romania (có 47 sư đoàn, 5 lữ đoàn với tổng cộng 500.000 lính Đức, 405.000 quân Romania, 400 xe tăng và pháo tự hành). Trong 9 ngày, Hồng quân đã tiêu diệt 25 vạn quân địch và bắt gần 30 vạn tù binh, giải phóng hoàn toàn Moldavia, quân đội Xô Viết ào ạt kéo vào Romania làm tan rã 350.000 quân còn lại của nước này, đã loại bỏ Romania ra khỏi khối Trục.

  • Chiến dịch Baltic từ 14 tháng 9 đến 24 tháng 11, 1944: Là chiến dịch giải phóng phần đất cuối cùng của Liên Xô. Trong chiến dịch này, các bộ phận của 4 phương diện quân Xô viết (gồm 900.000 quân, 17.500 khẩu pháo, 3.080 xe tăng, 2.640 máy bay) đã tổng tấn công cụm tập đoàn quân Bắc của Đức (gồm 730.000 quân, 7.000 đại bác và súng cối, 1.200 xe tăng và pháo tự hành). Cụm tập đoàn quân Bắc đã bị đánh bại và bị dồn về phía biển.

Đến cuối năm 1944, Liên Xô đã giải phóng hoàn toàn lãnh thổ Xô Viết. Hồng quân đã mở đường vào bắc Na Uy, Hungary, Áo, khu vực Balkan và Tiệp Khắc, loại khỏi vòng chiến các đồng minh của Đức Quốc xã là Phần Lan, Hungary, România và Bulgaria (một số quốc gia về sau đã quay sang tuyên chiến với Đức). Khối phát xít của Đức sụp đổ, Liên Xô mở rộng đường tiến vào Đông Âu.


Người lính Hồng quân Meliton Kantaria cắm cờ Xô Viết trên tòa nhà Quốc hội Đức, đánh dấu chiến thắng của Liên Xô trong thế chiến thứ hai

Từ ngày 12 tháng 1 đến 3 tháng 2 năm 1945, Hồng quân tổ chức chiến dịch Wisla-Oder. Hai phương diện quân Xô viết (có 2,2 triệu quân, 33.500 nghìn đại bác và súng cối; 7.000 xe tăng và pháo tự hành; 5.000 máy bay) đã tiêu diệt hầu hết các lực lượng Đức trên hướng phòng thủ Warszawa – Berlin (có 450.000 quân, 5.000 đại bác và súng cối, 1.220 xe tăng và pháo tự hành, 630 máy bay), giải phóng gần hết Ba Lan và đặt sự tồn tại của Đức Quốc xã chỉ còn tính từng tuần.

Mặt trận Xô-Đức là mặt trận có quy mô lớn nhất trong thế chiến thứ 2. Đức đã tung ra 70% binh lực với các sư đoàn mạnh và tinh nhuệ nhất, cùng với khoảng 81% số đại bác, súng cối; 65% xe tăng; 60% máy bay chiến đấu, chưa kể binh lực góp thêm của các nước đồng minh của Đức (Ý, Rumani, Bulgari, Hungary, Phần Lan...) Có những thời điểm hai bên chiến tuyến đồng thời hiện diện đến 12,8 triệu quân, 163.000 khẩu pháo và súng cối, 20.000 xe tăng và pháo tự hành, 18.800 máy bay. Ngay cả sau khi Mỹ, Anh mở mặt trận phía Tây, Đức vẫn sử dụng gần 2/3 binh lực để chiến đấu với Liên Xô. Các trận đánh như Trận Moscow, Trận Stalingrad, Trận Kursk, Chiến dịch Bagration là những chiến dịch có quy mô, sức tàn phá và số thương vong ghê gớm nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai[70].


Bích cương cổ vũ lao động của Liên Xô năm 1941: "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng".

Nền kinh tế Liên Xô đã có những nỗ lực sản xuất phi thường để bù đắp tổn thất và làm nên chiến thắng chung cuộc. Chỉ trong 1 năm rưỡi (từ tháng 6/1941 đến hết 1942), Liên Xô đã sơ tán hơn 2.000 xí nghiệp và 25 triệu dân và sâu trong hậu phương. Các nhà máy tăng nhanh tốc độ sản xuất, năm 1942, sản lượng vũ khí đã tăng gấp 5 lần so với 1940 và đã bắt kịp Đức, tới năm 1943 thì đã cao gấp đôi Đức. Giai đoạn 1941-1945, trung bình mỗi năm Liên Xô sản xuất được 27.000 máy bay chiến đấu, 23.774 xe tăng và pháo tự hành, 24.442 khẩu pháo (từ 76mm trở lên); con số này ở phía Đức là 19.700 máy bay chiến đấu, 13.600 xe tăng và pháo tự hành, 11.500 khẩu pháo. Nhờ sản lượng vũ khí khổng lồ, đến cuối chiến tranh, Liên Xô đã có trong tay một lực lượng lục quân mạnh nhất thế giới với 13 triệu người, trang bị 40.000 xe tăng và pháo tự hành và hơn 100.000 khẩu pháo các loại.

Kết quả tại mặt trận Xô-Đức, quân Đức và chư hầu đã bị tổn thất 607 sư đoàn, trong đó có 507 sư đoàn Đức tinh nhuệ, tương đương với 75% tổng số tổn thất của quân Đức trong chiến tranh. Về trang bị, Đức bị mất 75% số xe tăng, 70% số máy bay, 74% số pháo binh và 30% số tàu hải quân tại mặt trận Xô-Đức. Trong khi đó, các nước đồng minh khác (Anh, Mỹ, Úc...) trong suốt thời gian chiến tranh, trên tất cả các chiến trường đã đánh tan được 176 sư đoàn[70]

Khoảng 5,3 triệu lính Đức và chư hầu đã tử trận tại mặt trận Liên Xô, cùng với khoảng 6 triệu khác bị tan rã hoặc bị bắt làm tù binh, chiếm 75% tổng thương vong của phe phát xít trong toàn bộ Chiến tranh thế giới thứ hai. Về phía Liên Xô, Quân đội Xô Viết tổn thất 8,67 triệu binh lính trong suốt 4 năm chiến tranh (bao gồm khoảng 6,87 triệu tử trận trong chiến đấu và 1,8 triệu tù binh chết trên tổng số 3,6 triệu lính bị quân Đức bắt làm tù binh). Khoảng 400.000 quân nhảy dù và du kích cũng thiệt mạng phía sau vùng tạm chiếm của Đức.[71] Tổn thất về dân thường của Liên Xô là rất lớn do chính sách tiêu diệt người Slav của Đức, ước tính khoảng 12-18 triệu dân thường Liên Xô đã chết.


Mặt trận Bắc Phi kết thúc[sửa | sửa mã nguồn]


Đến tháng 12/1941, quân Đức thất bại trong trận đánh trước cửa ngõ Mátxcơva. Mặt trận Xô - Đức thu hút tất cả lực lượng của Đức và buộc Đức cắt giảm lực lượng cho các mặt trận khác. Quân Đức ở Bắc Phi bị thiếu đạn dược, nhiên liệu nên không thể tấn công tiếp được nữa.

Vào đầu năm 1942, việc Anh thắng lợi trong cuộc đánh bại lực lượng hải quân Ý ở Regia Maria khiến phía Đồng Minh có thêm quân nhu và vật chất. Việc này cho phép các lực lượng Anh đẩy mạnh sau trận El Alamein thứ hai, quân đoàn thứ 8 của Anh ở Bắc Phi gồm 7 sư đoàn bộ binh, 3 sư đoàn thiết giáp và 7 lữ đoàn chiến xa đã mở cuộc tiến công. Quân Đức ít quân hơn không thể chống đỡ nổi, quân Anh chiếm gần hết toàn bộ Libya và đuổi quân Trục vào Tunisia. Vào tháng 11 năm 1942, tình trạng càng tệ hơn cho quân Trục khi Hoa Kỳ thực hiện Chiến dịch Bó Đuốc, đổ bộ vào Maroc, bao vây các lực lượng phe Trục. Ngày 8/11/1942, Franco (đứng đầu chính phủ phát xít Tây Ban Nha) đã báo trước cho Đức biết về cuộc đổ bộ này, nhưng Đức không làm gì được bởi vì lúc ấy tất cả dự trữ của Đức đã được ném vào trận Stalingrad với Liên Xô.

Cho đến tháng 5 năm 1943, toàn bộ các lực lượng phe Trục tại Bắc Phi đã bị đánh bại sau Chiến dịch Tunisia. Mặt trận Bắc Phi kết thúc với thắng lợi giành cho các lực lượng đồng minh Anh-Mỹ.


Chiến dịch Ý[sửa | sửa mã nguồn]


Với khu Bắc Phi được củng cố, các lực lượng Anh-Mỹ đổ bộ vào đảo Sicilia trong năm 1943, bắt đầu một cuộc tấn công vào phần "bụng mềm phía dưới của châu Âu". Cuộc tấn công vào Sicilia thành công, khiến chính quyền của Benito Mussolini sụp đổ và chính phủ mới của Ý ký hiệp định đình chiến với quân Đồng Minh. Các lực lượng Đức can thiệp để quân Đồng Minh không giành được toàn bộ Ý. Ngày 12/9/1943, Mussolini được quân Đức cứu thoát để tổ chức lại lực lượng, và lập lại chính phủ phát xít ở miền Bắc Italia, gọi là nền "cộng hòa Salo".

Hơn 30 sư đoàn Đức được điều sang phòng ngự tại Ý. Sau cuộc đổ bộ tại Salerno, tiến trình hành quân của Đồng Minh bị chậm lại bởi địa thế khó khăn, lại bị quân Đức có kinh nghiệm hơn chống giữ. Quân Đồng Minh ở hướng này không đạt được thành công đáng kể nào, họ bị quân Đức chặn đứng ở vùng núi nằm giữa nước Ý cho đến hết chiến tranh.


Mặt trận phía Tây[sửa | sửa mã nguồn]


Những kế hoạch ban đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1941, Liên Xô đang phải một mình đối đầu với lực lượng Đức Quốc xã đang rất mạnh. Sau khi kết làm đồng minh, trong số nhiều yêu cầu, yêu cầu đầu tiên của Liên Xô là Anh mở một mặt trận thứ hai, nhằm giảm bớt sức ép của Đức đối với Hồng Quân. Nhưng vào mùa hè năm 1941, nước Anh chưa sẵn sàng tiến hành đổ bộ lên bờ biển Pháp. Lục quân Anh chưa thắng được quân Đức một trận nào dù đã tham chiến 2 năm, và thảm bại ở Pháp năm 1940 cho Anh thấy lục quân Đức mạnh hơn họ rất nhiều. Do vậy, Anh từ chối đổ quân lên Pháp và nói rằng họ đang làm hết sức mình để giúp Hồng Quân, nhưng nhiều người Anh không tin vào lời nói đó. Đại sứ Anh ở Liên Xô, Stafford Cripps đã tố cáo Chính phủ Anh đang lẩn tránh cuộc chiến tranh, đẩy Hồng Quân Liên Xô vào chổ phải hứng chịu nhiều thương vong. Ông ta nói: công luận Liên Xô tin rằng Anh sẵn sàng “chiến đấu đến giọt máu cuối cùng của Liên Xô”.

Tháng 12 năm 1941, cục diện chiến tranh thay đổi. Hồng Quân đã thắng trận đánh chiến lược ở Moscow. Ở Anh, các quan chức giờ đã tin rằng lục quân Đức vẫn có thể bị đánh bại, và trước sức ép liên tục của Stalin, cuối cùng các quan chức này phải thảo luận hướng tới việc mở mặt trận thứ hai ở Pháp.


Tù binh Anh và Canada bị bắt tại Trận Dieppe

Tuy nhiên, đầu năm 1942, quân Anh đang bị phe Trục đánh bại liên tiếp tại Mặt trận Bắc Phi, dù phe Trục mới chỉ tung vào mặt trận này 4 sư đoàn Đức và 5 sư đoàn Ý, tổng cộng là khoảng 160.000 quân. Dù đang huy động 80% binh lực (gồm 217 sư đoàn và 20 lữ đoàn, khoảng 6 triệu quân) để tấn công Liên Xô, nhưng Đức vẫn còn khoảng 40 sư đoàn (khoảng 1 triệu quân) đóng ở Tây Âu. Từ thực tế này, các tướng lĩnh Anh tính toán rằng: chỉ chống lại 160.000 quân Đức-Ý mà quân Anh đã liên tiếp thất bại, thì họ cũng sẽ không thể nào chống cự lại nổi 1 triệu quân Đức nếu đổ bộ lên Tây Âu.

Trận Dieppe vào ngày 19/8/1942 đã củng cố nhận định của các tướng lĩnh Anh rằng quân của họ sẽ không thể bám trụ nổi sau khi đổ bộ lên đất đối phương. Trong trận này, 10.000 quân Anh và Canada đã chủ động mở một chiến dịch đổ bộ lên nước Pháp tại một dải bờ biển chỉ có 1.500 quân Đức trấn giữ. Cuộc tấn công bắt đầu vào lúc 5 giờ sáng, nhưng chỉ đến 9 giờ sáng cùng ngày thì quân Anh đã phải rút lui vì thiệt hại quá nặng nề mà không đạt được kết quả nào. Không quân Anh cũng thua to, mất 106 máy bay trong khi Đức chỉ mất 48 chiếc. Hải quân Anh cũng bị mất 1 khu trục hạm, 33 tàu đổ bộ.

Sau trận Dieppe, không có hành động quân sự lớn nào được Anh thực hiện tiếp. Anh chỉ tung những nhóm nhỏ quân biệt kích vào đất Pháp để đánh du kích, đồng thời khích động tinh thần của nhân dân kháng chiến tại Pháp. Tuy vậy, năm 1943, quân đội Anh-Mỹ đã liên tục giành thắng lợi trong các chiến dịch tại Bắc Phi, cũng như Sicily và Italy. Những chiến dịch này đã cung cấp thêm kinh nghiệm quý báu cho quân Đồng Minh trong kế hoạch đổ bộ sau đó . Thế nhưng phải tới năm 1944, khi Anh đã nhận được sự hỗ trợ lớn của Mỹ thì kế hoạch đổ quân lên Tây Âu mới được bàn thảo tiếp.


Các trận ném bom nước Đức[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1942, không quân Anh bắt đầu mở cuộc oanh tạc dai dẳng, ngày càng tăng thêm vào các mục tiêu quân sự và dân sự của Đức và các vùng châu Âu lân cận.[73][74]Không quân Hoa Kỳ tham gia cuộc ném bom châu Âu từ đầu năm 1943. Tuy vậy, kỹ thuật ném bom thời đó không đạt độ chính xác cao nên phần lớn các trận bom của Anh-Mỹ không đánh trúng mục tiêu (ước tính rằng chỉ có 7% số bom rơi trúng một khu vực bán kính 300 mét quanh mục tiêu), do đó thiệt hại gây ra cho nền công nghiệp Đức là khá nhỏ và có thể được sửa chữa một cách nhanh chóng. Trong khi đó, không quân và phòng không Đức kháng cự quyết liệt gây tổn thất nặng cho lực lượng máy bay ném bom Anh-Mỹ. Ví dụ như trận không kích Schweinfurt thứ hai vào ngày 14 tháng 10 năm 1943 được gọi là "ngày thứ ba đen tối".[75] Trong số 291 chiếc B-17 Flying Fortress tham gia tấn công, đã có 77 chiếc bị Đức bắn hạ, 122 chiếc khác bị hư hại. Thiệt hại trong trận này nặng tới mức không quân Anh-Mỹ phải ngừng ném bom ban ngày vào lãnh thổ Đức trong suốt hàng tháng.

Chiến dịch ném bom của Anh-Mỹ đã không đạt được kết quả chiến lược: sản lượng vũ khí của Đức vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 1943 đã cao gấp đôi năm 1942 và vẫn tiếp tục tăng cho đến cuối năm 1944 (chỉ sau khi Đức bị mất mỏ dầu ở Romania vào tay Hồng quân Liên Xô thì sản lượng vũ khí của Đức mới sụt giảm). Tinh thần chiến đấu của quân đội Đức cũng không bị các trận bom làm suy giảm.[74] Tổn thất mà các trận ném bom của Anh - Mỹ gây ra cho sản xuất công nghiệp Đức được ước tính chỉ dao động trong khoảng 0,6 - 4,4% (tùy thành phố). Các chỉ huy Anh-Mỹ nhận ra nếu muốn đánh bại Đức, họ bắt buộc phải dùng lực lượng bộ binh để đổ bộ vào châu Âu.


Đồng Minh đổ bộ lên Tây Âu[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Hội nghị Tam cường ở Washington vào tháng 5 năm 1943, lãnh đạo ba nước Mỹ, Anh và Liên Xô đã thảo luận với nhau về việc mở Mặt trận thứ hai. Thủ tướng Anh Churchill đề xuất mở một chiến dịch tấn công vào lãnh thổ Đức từ Địa Trung Hải, nhưng Tổng thống Mỹ Roosevelt phản đối kế hoạch này, do đó nó đã không được thực thi .

Vào tháng 02 năm 1943, chiến thắng của Hồng Quân ở trận Stalingrad đã đập tan tham vọng thôn tính Liên Xô của Đức Quốc xã. Mặc dù vậy Stalin vẫn tin rằng quân đội Liên Xô sẽ bị đánh bại nếu không có sự trợ giúp của Anh và Mỹ, do đó ông đã liên tục kêu gọi mở mặt trận thứ hai [77]. Thủ tướng Anh Churchill lại cho rằng ngay cả được sự trợ giúp của Mỹ thì Anh cũng không thể có đủ lực lượng để thực hiện một chiến dịch như vậy . Tổng thống Mỹ Roosevelt ở hội nghị Tehran vào tháng 11 năm 1943 đã cam kết với Nguyên soái Stalin (Liên Xô) rằng một mặt trận thứ hai sẽ được mở. Thủ tướng Churchill tiếp tục phản đối quyết liệt do ông lo sợ việc mở một cuộc tấn công ở Tây Âu có thể dẫn đến tổn thất nặng nề cho phe Đồng Minh như đã từng xảy ra ở Somme và Passchendaele trong thế chiến I , thế nhưng ý kiến của ông đã bị bỏ ngoài tai bởi Roosevelt và việc mở mặt trận thứ hai vẫn sẽ được thực hiện. Normandy được hoạnh định trở thành địa điểm đổ bộ cho quân Đồng Minh. Bernard Montgomery của Anh và Dwight D. Eisenhower của Mỹ là hai người sẽ chỉ huy cuộc đổ bộ.


Quân Mỹ đổ bộ lên bờ biển Normandie

Vào ngày 6 tháng 6 năm 1944, các lực lượng Đồng Minh Tây phương đồng loạt đổ bộ vào bờ biển Normandie, một vùng ở miến bắc nước Pháp đang bị Đức chiếm đóng. Chiến dịch được soạn ra từ nhiều năm trước, lực lượng nòng cốt là các đơn vị Mỹ, Anh cùng một số đơn vị khác của Canada, Pháp, Ba Lan... Ước tính có 39 sư đoàn quân Đồng Minh, trong đó có 22 sư đoàn của Mỹ và 12 sư đoàn của Anh, 5 sư đoàn tới từ các quốc gia khác, tổng cộng là hơn một triệu binh lính tham gia vào chiến dịch này, khiến nó trở thành chiến dịch đổ bộ lớn bậc nhất trong lịch sử .

Quân Đồng minh mở đầu chiến dịch bằng việc ném bom hàng loạt từ các căn cứ không quân bên kia eo biển nước Anh cùng với sự yểm trợ của khoảng 6.500 khu trục hạm và tàu đổ bộ, cùng một lực lượng không quân rất lớn gồm 13.450 máy bay các loại.

Ở Tây Âu, Đức chỉ bố trí 60 sư đoàn (trong khi Đức huy động 180 sư đoàn cho chiến trường Liên Xô). Ở Normandie, Đức chỉ có 9 sư đoàn bộ binh và một sư đoàn thiết giáp do thống chế Erwin Rommel chỉ huy. Ở khu vực đổ bộ, lúc đầu Đức chỉ có 300 máy bay, sau tăng lên 600, tức là ít hơn đối phương 22 lần. Tuy nhiên quân Đức vẫn kháng cự rất mãnh liệt. Chiến dịch diễn ra rất khốc liệt, ngay những giờ phút đầu tiên đã có 4.000 quân Đồng Minh tử trận. Mặc dù áp đảo về quân số và trang bị, quân Mỹ và Anh vẫn tiến rất chậm, trung bình mỗi ngày chỉ được 4 km. Mặt khác, không quân Đồng minh lúc này đã hoàn toàn làm chủ bầu trời và mạng lưới đường sắt của quân Đức đã bị phá hủy nặng nề bởi những trận bom liên tiếp của quân Đồng minh, điều này khiến cho quân Đức không thể vận chuyển quân tiếp viện tới Normandy kịp thời. Phe Đồng Minh đã gặp rất nhiều khó khăn trong những ngày đầu tiên, tuy nhiên họ dần giành lấy ưu thế sau khi chiếm được cảng Cherbourg vào ngày 21 tháng 6 và chiếm được Caen vào ngày 21 tháng 7. Cuộc chiến cù cưa giữa đôi bên diễn ra khá lâu, quân Đức cuối cùng cũng cạn kiệt lực lượng dự bị và phải rút khỏi miền bắc nước Pháp, nhưng quân Đồng Minh cũng thiệt hại nặng.


Bức tranh minh hoạ cảnh Quân Mỹ giải phóng Paris vào ngày 25 tháng 8 năm 1944

Khi chiến dịch này thành công, quân Đồng Minh tiến sâu vào Pháp, đẩy lui quân Đức ra khỏi Pháp, nhưng thường bị thiếu tiếp tế cũng như bị quân Đức đang rút lui cản trở. Các cuộc đổ bộ khác tại miền Nam Pháp (chiến dịch Dragoon) cuối cùng đã giải phóng nước này. Đến ngày 25 tháng 8, quân Đồng minh tiến vào thủ đô Paris, chính phủ bù nhìn Vichy sụp đổ, Lực lượng Pháp tự do của tướng Charles De Gaulle lên nắm quyền. Trên đà chiến thắng, quân Đồng minh tiếp tục tiến quân vào giải phóng các nước Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và bao vây nước Đức từ phía tây, cùng với Liên Xô ở phía đông tạo nên thế gọng kìm đối với nước Đức. Giờ đây, Đức lại một lần nữa bị ép ở hai mặt trận Đông-Tây.

Khi tiến đến ranh giới Đức, lực lượng Đồng Minh phải dừng lại để chờ tiếp tế. Việc này tạo một cơ hội cho lực lượng Đức củng cố phòng thủ chống lại cuộc tấn công kế tiếp. Việc này dẫn đến sự ra đời của chiến dịch Market Garden, mục tiêu là sử dụng không quân thả lính dù vào sâu lãnh thổ nước Đức nhằm đánh chiếm trước các vị trí chiến lược như cầu, kho bãi, v.v. kết hợp với lực lượng xe tăng thọc sâu để tạo nên đòn quyết định kết thúc chiến tranh. Market Garden trở thành chiến dịch đổ bộ bằng không quân lớn nhất lịch sử với hơn hàng ngàn máy bay tham gia. Quân Đồng Minh cố gắng xuyên thủng Hà Lan và qua sông Rhine để kết thúc chiến tranh vào năm 1944. Nhưng chiến dịch này đã bị thất bại và lực lượng Đồng Minh đã tiến vào Đức chậm hơn so với Liên Xô.

Ước tính có khoảng 780.000 quân Đồng Minh bị thương vong trong những chiến dịch tiếp theo trận Normandie cho tới khi nước Đức đầu hàng. Tổn thất của phía Đức ở mặt trận này là khoảng 750.000 lính, cộng thêm khoảng 200.000 lính khác bị bắt.


Phe Trục thua cuộc tại châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]


Tình hình Đức cuối năm 1944 là vô vọng. Các Đồng Minh Tây phương đang tiến vào biên giới Đức từ phía tây, chỉ tấn công thêm một lần nữa là chiếm được khu vực công nghiệp Rhineland. Liên Xô cũng đang ở một vị trí tương tự ở phía đông, không lâu sẽ vào đến tận Berlin. Các trận đánh bom hàng loạt từ Anh và Mỹ đã biến nhiều khu vực Đức thành gạch vụn, khiến ngành công nghiệp quân sự sụt giảm nghiêm trọng.

Đang bị bao vây từ các phía đông, tây và trên cao, Hitler đánh canh bạc cuối cùng để hy vọng không thua cuộc. Để tái tạo lại chiến thuật thành công vào năm 1940 đối với các nước Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, các lực lượng Đức tấn công vào giữa mùa đông để chia cắt các lực lượng Đồng Minh ở Bỉ, với tham vọng bắt được một lượng lớn tù binh đủ để buộc Mỹ, Anh phải chấp nhận đàm phán hòa bình. Trong trận Ardennes, quân Đức tấn công bất ngờ khiến phòng tuyến Đồng Minh bị uốn cong. Quân Đức bắt được vài ngàn tù binh và tiến sâu hàng chục km, nhưng Đức không đủ lực lượng để chọc thủng hoàn toàn phòng tuyến và cuối cùng bị quân Đồng Minh đẩy lùi.

Sau thất bại ở Ardennes, quân Đức không còn hy vọng lật ngược tình thế. Mục tiêu của Đức hiện giờ là cố gắng phòng thủ càng lâu càng tốt ở mặt trận phía Đông, trong khi thả lỏng mặt trận phía Tây cho quân Anh-Mỹ tiến càng nhanh càng tốt. Do học thuyết Quốc xã mang tư tưởng "không đội trời chung" với chủ nghĩa cộng sản, nên các lãnh đạo Đức Quốc xã thà đầu hàng trong tay Anh-Mỹ còn hơn là phải đầu hàng trong tay Liên Xô.


Hồng quân Liên Xô cắm cờ trên nóc nhà quốc hội Đức

Tại miền đông, Đức dành hết mọi nỗ lực cuối cùng để phòng thủ thủ đô. Ngày 16/4/1945, Liên Xô mở chiến dịch Berlin, tấn công vào trung tâm của Đức Quốc xã. Trên đường vào Berlin, Đức đã bố trí hơn 90 sư đoàn (trong đó có 14 sư đoàn xe tăng và cơ giới) với quân số gần 1 triệu người, 10.000 đại bác và súng cối, 1.520 xe tăng và pháo tự hành, 2.300 máy bay chiến đấu. Để tiến hành chiến dịch đánh chiếm Berlin, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã huy động lực lượng của 3 phương diện quân (gồm tổng động 2,5 triệu quân, 41.600 súng cối và đại bác, 3.255 dàn pháo phản lực Kachiusa, 6.300 xe tăng và pháo tự hành, 7.800 máy bay).

5 giờ sáng 16/4/1945, sau 30 phút cho pháo bắn cực mạnh và máy bay oanh tạc dữ dội vào trận địa phòng ngự của quân Đức, Hồng quân Liên Xô mở màn chiến dịch công phá Berlin. Để phòng thủ Berlin, Đức bố trí 41 sư đoàn bộ binh, 5 sư đoàn xe tăng và 12 sư đoàn cơ giới cùng rất nhiều các đơn vị độc lập khác tổng cộng gần 1 triệu quân; 10.400 đại bác và súng cối; 1.500 xe tăng và pháo tự hành; 3.300 máy bay chiến đấu. Sau 1 tuần, Hồng quân đánh tan các tuyến phòng thủ ngoại vi và bắt đầu tấn công vào nội đô Berlin. Sau 1 tuần chiến đấu trong nội đô Berlin, Liên Xô đã chiếm được trụ sở quốc hội Đức vào ngày 30/4/1945, còn Hitler đã tự sát trong hầm trú ẩn. 15 giờ ngày 30/4, cờ đỏ Liên Xô đã được cắm trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức. Ngày 2/5, Hồng quân chiếm toàn thành phố Béclin. Khoảng 400.000 lính Đức đã chết hoặc bị thương trong trận đánh cuối cùng, 480.000 quân khác bị bắt làm tù binh, trong khi Liên Xô tổn thất 81.000 người chết và hơn 200.000 bị thương.

Sau khi Berlin thất thủ và Hitler tự tử, Đức chỉ còn lại là một mảnh đất nhỏ tại châu Âu từ mũi bắc Na Uy cho đến phần trên của Ý. Vào ngày 9 tháng 5 năm 1945, số quân Đức còn lại ở Berlin là hơn 400.000 người (không kể số bị thương) đã đầu hàng vô điều kiện. Đây được coi là ngày chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại, cũng là ngày chiến thắng chung của khối Đồng Minh tại châu Âu.


Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương[sửa | sửa mã nguồn]


Chiến trường châu Á-Thái Bình Dương khác với chiến trường châu Âu rất nhiều. Chiến trường này hầu hết được đánh tại các đảo hoặc vùng đất mà Nhật Bản đã chiếm đóng trong khu vực Tây Thái Bình Dương và Đông Á, cho nên hải chiến và các trận đánh gần biển xảy ra nhiều hơn ở châu Âu, trong khi các trận đánh trên đất liền lại có quy mô nhỏ hơn nhiều.


Sự bành trướng của Nhật Bản[sửa | sửa mã nguồn]



Chiến tranh Trung-Nhật đã diễn ra tại Đông Á trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu tại châu Âu, cho nên một vài sử gia cho rằng ngày Nhật xâm lăng Trung Quốc (ngày 7 tháng 7 năm 1937) là ngày bắt đầu chiến tranh tại chiến trường Thái Bình Dương. Tuy nhiên, nếu tính là một phần của Chiến tranh thế giới thứ hai, thì ngày 7 tháng 12 năm 1941 thường được nhắc đến như là ngày bắt đầu, khi Nhật tuyên chiến với Hoa Kỳ và các nước Đồng Minh bằng việc lực lượng của Hạm đội Liên Hợp Nhật Bản dưới sự chỉ huy của Đô đốc Yamamoto Isoroku tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), Philippines và một số thuộc địa của các cường quốc châu Âu tại Đông Á và Tây Thái Bình Dương.

Trận tập kích Trân Châu Cảng của Nhật đã thu được thắng lợi lớn, khiến hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ bị tê liệt trong nhiều tháng. Qua 2 đợt tấn công của hơn 350 máy bay Nhật Bản kéo dài trong gần 2 giờ đồng hồ, Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ bị đánh chìm 5 thiết giáp hạm (5 thiết giáp hạm khác bị hư hại), 3 tàu tuần dương bị hư hại, 2 tàu khu trục bị đánh chìm (một tàu khu trục khác bị hư hại).[81] Số máy bay Mỹ bị phá hủy là 188 chiếc và 128 chiếc khác bị hư hại. Số lính Mỹ bị giết là 2.403 người. Để đạt được thành quả rất lớn ấy, Nhật Bản chỉ phải mất 29 máy bay và 5 tàu ngầm bỏ túi.

12 giờ 30 phút ngày 8 tháng 12, tổng thống Roosevelt đã đọc Tuyên cáo chiến tranh của Hoa Kỳ đối với Nhật Bản. Ông mở đầu bài diễn văn như sau: "Hôm qua, ngày 7-12, một ngày của sự nhục nhã – Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã bị các lực lượng hải quân và không quân của đế quốc Nhật tấn công bất ngờ và không tuyên chiến…."[82]

Sau khi nói rõ thiện chí hòa bình và sự tráo trở của Nhật Bản trong các cuộc hội đàm và trong hành động thực tế để dẫn đến chiến tranh, tổng thống Roosevelt tuyên bố:




Hoa Kỳ đã chính thức bước vào cuộc chiến tranh tổng lực với Nhật Bản. Trong ngày 7 tháng 12, Úc cũng tuyên chiến với Nhật Bản[83] và một ngày sau đến lượt Hà Lan.[84] Tiếp đó, nước Pháp Tự do, New Zealand, Canada,… tất cả hơn 20 nước cũng lần lượt tuyên chiến với Nhật.[85] Ngày 9 tháng 12, chính phủ Trung Quốc giờ mới chính thức tuyên chiến với Nhật.


Roosevelt ký bản tuyên chiến với Nhật Bản, tháng 12 năm 1941

Tin chiến tranh giữa Nhật và Hoa Kỳ bùng nổ bay đến Berlin một cách đột ngột trong lúc Đức Quốc xã đang tập trung mọi sự chú ý vào mặt trận phía đông, nơi Hồng quân Liên Xô đã phản công mãnh liệt đẩy lùi quân Đức trước Moskva. Hitler triệu tập Quốc hội vào ngày 11 tháng 12 và chính thức tuyên chiến với Hoa Kỳ. Cùng trong ngày hôm ấy, Ý cũng tuyên chiến với Hoa Kỳ và Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức. Phạm vi của Chiến tranh thế giới thứ hai đã mở rộng và tạo nên một cuộc chiến tranh quy mô toàn thế giới.

Sau khi tấn công Trân Châu Cảng, Nhật hành động nhanh chóng để chiếm các đảo ở Thái Bình Dương có giá trị phòng thủ nhằm làm cạn ý chí chiến đấu của Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp ước hòa bình với những điều kiện có lợi cho Nhật. Vào cuối tháng 4 - đầu tháng 5 năm 1942, quân đội Nhật Bản cùng với nước chư hầu của họ là Thái Lan đã tràn vào Miến Điện, Mã Lai, Đông Ấn Hà Lan, Singapore, Hồng Kông, Philippines và giành thắng lợi nhanh chóng tại đây, đồng thời lật đổ chính quyền thực dân của các nước đồng minh Phương Tây. Tại Philippines, Tướng Mỹ Douglas MacArthur bị buộc phải sơ tán khỏi thủ đô Manila và phải rút chạy ra đảo Corregidor. Riêng tại Singapore, Nhật chiến thắng và bắt giữ gần 100.000 lính Anh, đây là trận thua có số lính bị bắt làm tù binh lớn nhất trong lịch sử nước Anh.

Các lực lượng hải quân Nhật Bản cũng đã giành được chiến thắng tại biển Đông, biển Java và Ấn Độ Dương, và không quân Nhật đánh bom căn cứ hải quân Đồng Minh tại Darwin, Australia. Chỉ có một chiến dịch của đồng minh giành thắng lợi trước Nhật Bản là chiến thắng của Trung Quốc tại Trường Sa. Suốt 5 tháng kể từ ngày nổ ra cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương, quân đội Nhật Bản đã đánh chiếm được tất cả các thuộc địa của Anh, Mỹ, Pháp, Hà Lan ở vùng Đông Nam Á và một số hòn đảo quan trọng trên Thái Bình Dương mà không vấp phải sự kháng cự đáng kể nào.[89] Toàn bộ vùng Nhật Bản chiếm được rộng 3,8 triệu km² với 150 triệu dân. Còn nếu tính cả các vùng chiếm được ở Trung Quốc thì diện tích lên đến 7 triệu km² với số dân khoảng 500 triệu người. Nhật Bản giờ đây đã nắm trong tay những nguyên liệu chiến lược mà họ rất cần - dầu hỏa, cao su, thiếc, tungsten, crôm, mangan và lúa gạo - ngoại trừ sắt.[90]. Thắng lợi của Nhật Bản trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương phần lớn là do không quân và hải quân, bởi vì Nhật chỉ điều động khoảng 11 sư đoàn lục quân (khoảng 200.000 người) để tấn công Philippines, Mã Lai, Miến Điện và Nam Dương trong khi 70% lục quân Nhật (khoảng 37 sư đoàn) còn đang ở Trung Hoa đại lục. Một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quân Nhật thắng lớn trong giai đoạn đầu là do sự mất cảnh giác, không chuẩn bị đầy đủ và thiếu kiên quyết của phía Mỹ, Anh chống lại cuộc tấn công của quân Nhật. Sự thất bại của những người da trắng ở châu Á còn làm tổn hại uy thế của họ một cách trầm trọng.[90]



Đầu tháng 5 năm 1942, "Chiến dịch MO" do phó đô đốc Shigeyoshi Inoue chỉ huy bắt đầu được thực hiện nhằm đánh chiếm cảng Moresby tại New Guinea. Nếu chiếm được cảng này, Nhật Bản sẽ kiểm soát được vùng biển phía bắc nước Úc và đặt nước này vào tình thế nguy hiểm. Tuy nhiên, không may cho người Nhật, người Mỹ đã giải mã được các mật mã của hải quân Nhật, và các lực lượng hải quân Mỹ-Úc được điều động tới vùng biển Coral để ngăn chặn bước tiến của quân Nhật. Trong hai ngày 7 và 8 tháng 5, trận chiến vùng biển Coral xảy ra giữa 2 phe. Kết thúc trận hải chiến, Nhật Bản giành thắng lợi về chiến thuật nhưng về mặt chiến lược, họ đã thất bại trong nỗ lực đổ bộ lên phía nam New Guinea. Lần đầu tiên kể từ trận Trân Châu cảng, một cuộc tấn công của Nhật Bản đã bị đánh bại. Với kết quả đó, Đồng Minh đã phần nào lấy lại thế chủ động và tình hình chiến lược Thái Bình Dương bắt đầu có sự đổi chiều bất lợi cho người Nhật.

Sáu tháng sau khi tuyên chiến, tháng 6 năm 1942, các hạm đội Nhật và Mỹ đánh nhau một trận lớn giữa Thái Bình Dương tại Midway. Kết quả sau trận đánh, quân Nhật thất bại nặng nề: 4 hàng không mẫu hạm, 1 tuần dương hạm bị đánh chìm, cộng thêm 330 máy bay. Phía Mỹ chỉ mất 1 hàng không mẫu hạm, 1 khu trục hạm và 147 máy bay. Qua trận đánh này, không chỉ mất đi sức mạnh hàng không mẫu hạm, người Nhật còn mất rất nhiều những phi công hải quân được huấn luyện tốt nhất. Đây cũng là trận đánh đánh dấu lần thất bại đầu tiên của hải quân Nhật trong lịch sử cận đại. Trận Midway do đó được xem là bước ngoặt của cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.

Trong khi đó, quần đảo Solomon bị người Nhật chiếm lấy vào tháng 4 năm 1942 nhưng vì ít quân nên Nhật chỉ chiếm một số đảo. Còn hải quân Nhật thì đóng tại Rabaul, nằm trên đảo New Britain. Sau đó, quân Nhật chọn đảo Guadalcanal, nằm ở đông nam Solomon làm căn cứ tiền phương và xây dựng sân bay ở phía bắc đảo. Ngày 7 tháng 8, chiến dịch phản công trên bộ đầu tiên của quân Đồng Minh ở vùng biển Tây Nam Thái Bình Dương bắt đầu khi Hoa Kỳ tung Sư đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến của họ với quân số khoảng 17.000 quân vào cuộc chiến ở quần đảo Solomon trong đó có 11.000 quân đổ bộ lên đảo Guadalcanal [95]. Hải quân Mỹ không ngừng đổ bộ thêm quân tăng viện lên đảo và đến tháng 1 năm 1943, số quân Mỹ có mặt trên đảo đã lên đến hơn 50.000 người. Trong khi đó, để tăng viện cho lực lượng bộ binh đang giao tranh, quân Nhật đã tổ chức các đoàn chuyển vận mà quân Đồng Minh gọi là "Tokyo Express", dẫn đến những cuộc hải chiến vào ban đêm với hải quân Đồng Minh. Tổng cộng đã có 6 trận hải chiến lớn diễn ra và kết thúc vào tháng 12 khi hải quân Nhật thất bại trong trận hải chiến Guadalcanal, đồng nghĩa với nỗ lực chuyển quân cuối cùng của người Nhật cũng thất bại.

Ngày 31 tháng 12, trong Hội nghị ngự tiền, Bộ tư lệnh Nhật Bản đã quyết định lệnh rút lui khỏi Guadalcanal. Từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1943, 10.630 lính Nhật đã thực hiện cuộc rút lui khỏi đảo. Ngày 9 tháng 2, Hoa Kỳ tuyên bố kết thúc chiến sự tại đây. chiến cuộc giành giật đảo Guadalcanal đã chấm dứt với thảm bại của quân đội Nhật. 24.000 lính Nhật chết từ đầu chiến dịch cho đến lúc rút quân, trong khi Hoa Kỳ có 7.100 người chết, hàng vạn người bị thương hoặc bị ốm đau do bệnh sốt rét và các hiểm họa khác trong rừng nhiệt đới[96]. Sau trận đánh này, gió hoàn toàn đã xoay chiều, Đồng Minh bước vào giai đoạn phản công ồ ạt.[97]

Với ưu thế là nền công nghiệp và nguồn tài nguyên có quy mô lớn hơn nhiều so với Nhật, hải quân Mỹ dần khôi phục và có số lượng tàu chiến áp đảo hải quân Nhật. Nhật tiếp tục tìm cách trả đũa, nhưng quân Mỹ dùng biện pháp đánh theo vòng ngoài của Nhật, cùng lúc nhảy từ đảo này qua đảo nọ để đẩy Nhật phải lui lại.


Nhật Bản thua cuộc[sửa | sửa mã nguồn]



Sau chiến dịch Guadalcanal, quân Đồng minh bắt đầu phản công nhằm đoạt lại những vùng lãnh thổ bị Nhật chiếm đóng trước đây. Khi Nhật bành trướng, họ để lại nhiều tiền đồn phòng thủ tại mỗi hòn đảo họ kiểm soát trên Thái Bình Dương. Kế hoạch của Mỹ để đối phó với các đảo này là chiếm những đảo cốt yếu cho việc tiến đến Nhật, trong khi làm giữ vững các đảo khác không bị chiếm. Thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ phải đánh nhiều trận đấu đẫm máu trên những hòn đảo này để chiếm giữ những đảo và sân bay để quân đội có thể tiến tới. Tháng 5 năm 1943, các lực lượng Canada và Mỹ đẩy lùi quân Nhật khỏi quần đảo Aleutian.[98] Ngay sau đó, quân đội Hoa Kỳ, với sự hỗ trợ từ lực lượng các nước Úc và New Zealand, bắt đầu thực hiện hiện kế hoạch cô lập căn cứ của Nhật tại Rabaul bằng cách đánh chiếm các hòn đảo lân cận, và phá vỡ vành đai phòng thủ Thái Bình Dương của Nhật Bản tại quần đảo Gilbert và Marshall. Vào cuối tháng 3 năm 1944, quân Đồng minh đã hoàn thành cả hai mục tiêu này, vô hiệu hóa căn cứ chính của Nhật Bản tại Truk ở quần đảo Caroline.

Tại phía nam của cuộc bành trướng của quân đội Nhật Bản, trên đảo New Guinea, Nhật đã bị quân lực Úc chặn lại, không chiếm giữ nổi toàn bộ đảo. Hai lực lượng này đánh nhau trong các khu rừng trong những hoàn cảnh khốc liệt để giành giật đảo này. Trong khi New Guinea không quan trọng lắm, nhưng quân Úc sợ sau khi Nhật chiếm giữ đảo này, Úc sẽ bị đe dọa. Vào tháng 4, quân Đồng minh đã thực hiện một chiến dịch chiếm lại New Guinea.



Tại Đông Nam Á, Nhật đã tiến nhanh trong các thuộc địa của Anh cho đến khi bị kháng cự mãnh liệt tại Miến Điện. Quân lực Anh, trong đó có rất nhiều đơn vị người Ấn Độ, đã đuổi lùi quân Nhật tại trận đánh Kohima-Imphal và vì thế Nhật không đe dọa được Ấn Độ và các đường tiếp tế cần thiết cho quân Trung Quốc đang đánh các lực lượng Nhật tại đó.

Tại mặt trận Trung Quốc, các bên Quốc-Cộng đồng loạt mở các chiến dịch tiến công quân Nhật từ đông sang tây. Các tướng Lâm Bưu, La Vinh Hoàn, Diệp Kiếm Anh, Trần Nghị,... và đặc biệt là Nguyên soái Chu Đức ở bên Cộng sản đảng, và Tưởng Giới Thạch, Trương Tự Trung và Tưởng Trung Chính ở bên Quốc dân đảng đã cùng chiến đấu, ép cho quân Nhật dần bị tiêu hao trên lãnh thổ Trung Quốc, đẩy Nhật vào thế lúng túng, tứ phương gặp địch (1942-1944).

Ở Thái Bình Dương, vào giữa tháng 6 năm 1944, quân đội Hoa Kỳ đã chiếm lại Mariana và Palau từ tay Nhật với chiến thuật "nhảy cừu", đồng thời đánh bại hải quân Nhật trong trận chiến trên Biển Philippines. Cuối tháng 10, lực lượng Hoa Kỳ đánh chiếm hòn đảo Leyte của Philippines; ngay sau đó, lực lượng hải quân Đồng Minh giành được một chiến thắng lớn khác trước lực lượng của Nhật Bản trong Trận hải chiến Vịnh Leyte, trận đánh trên biển lớn nhất trong lịch sử nhân loại.[99].

Đến tháng 4 năm 1945, quân Mỹ mới làm chủ hoàn toàn Leyte. Trước đó, quân Mỹ đã đổ bộ lên Luzon vào tháng 1 và giải phóng thủ đô của Philippines là Manila vào tháng 3. Tháng 5 năm 1945, quân đội Úc đổ bộ vào Borneo và đánh chiếm các mỏ dầu của Nhật tại đây. Liên quân Anh, Mỹ và Trung Quốc đánh tan quân Nhật ở miền Bắc Miến Điện vào tháng 3, và người Anh chiếm được Rangoon vào ngày 3 tháng 5.[100] Các lực lượng Trung Quốc cũng bắt đầu phản công trong Trận Tây Hồ diễn ra từ ngày 6 tháng 4 đến ngày 7 tháng 6 năm 1945.

Đến gần cuối chiến tranh, hải quân Mỹ đã làm chủ tình hình, hải quân Nhật gần như đã mất hết lực lượng. Mỹ dần đánh chiếm các căn cứ gần Nhật và bắt đầu ném bom vào các đảo nước này. Tuy không mạnh mẽ như tại Đức, việc ném bom rất có hiệu quả vì nhà cửa ở Nhật dễ sập hơn và lực lượng phòng không Nhật ít có khả năng đối phó với mối đe dọa này. Trong trận đánh bom của không quân Mỹ tiến hành vào đêm ngày 9 tháng 3 năm 1945 ở Tokyo, đã có 85.000 người thiệt mạng, nhiều hơn so với bất kỳ cuộc không kích nào khác trong Thế chiến II. Việc mất các thuộc địa và quan trọng hơn là việc mất các tuyến hàng hải đã làm tê liệt khả năng thu thập tài nguyên cần thiết của Nhật. Vì thế, ngành công nghiệp Nhật không thể sản xuất vũ khí bằng mức có thể duy trì được thế cầm cự vào lúc chiến tranh sắp chấm dứt. Lực lượng hải quân và lực lượng đổ bộ của Mỹ dần dần tiến sát đến lãnh thổ Nhật Bản, đánh chiếm Iwo Jima vào tháng 3 và Okinawa vào cuối tháng 6. Trong trận chiến trên đảo Okinawa, Nhật Bản bị tổn thất hơn 90.000 quân, chưa kể hơn 150.000 dân đảo Okinawa chết vì nhiều nguyên nhân, 6 chiến hạm và 1.430 máy bay. Phía Mỹ tổn thất 20.195 lính chết (bao gồm 12.520 chết tại trận, gần 7.800 chết tại bệnh viện vì bị thương hoặc bị bệnh), 55.162 người bị thương, 763 máy bay bị rơi, 36 chiến hạm chìm và 22 chiến hạm bị hư hại.[101]Trận Okinawa được coi là trận đánh đẫm máu nhất của chiến tranh Thái Bình Dương.[102]

Quân Đồng Minh lên kế hoạch đổ bộ vào Nhật (chiến dịch Downfall), nhưng sự phát triển bom nguyên tử làm thay đổi tình hình. Ngày 6 và 9 tháng 8, hai quả bom đã được Hoa Kỳ thả xuống Hiroshima và Nagasaki, chỉ trong chớp mắt 2 trái bom này đã giết chết hơn 200.000 thường dân.


Bản đồ chiến dịch Mãn Châu của Hồng quân Liên Xô.

Theo cam kết với các nước Đồng Minh, Quân đội Liên Xô sau khi kết thúc chiến tranh ở Đức đã tuyên bố chiến tranh với Nhật. Ngày 8 tháng 8 năm 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Sáng ngày 9 tháng 8 năm 1945, Hồng quân Liên Xô huy động 1,5 triệu quân (3 phương diện quân), 5.500 xe tăng, 3.900 máy bay, 2.600 pháo và súng cối, cùng 25 tàu của hạm đội Thái Bình Dương, đã mở cuộc tấn công vào đạo quân Quan Đông của Nhật Bản (gồm 714.000 quân chủ lực Nhật và hơn 214.000 quân chư hầu của Nhật là Mãn Châu Quốc, Mông Cương) đóng trải ra trên một trận tuyến kéo dài hơn 4.500 km từ Bắc Triều Tiên, Đông – Bắc Trung Quốc tới Nam đảo Sakhalin và quần đảo Curin. Trong vòng 1 tuần, Hồng quân đã gần như đánh tan đội quân này, bắt gần 600.000 tù binh và chiếm gần hết Mãn Châu. Kho quân giới và nguồn cung cấp tài nguyên lớn nhất còn lại của Nhật đã bị chiếm.

Ngay trong ngày 9 tháng 8, trong cuộc họp Hội đồng Chiến tranh Tối cao khai mạc lúc 10:30, thủ tướng Kantaro Suzuki đánh giá rằng "Việc Liên Xô tham chiến sáng hôm nay đã đưa chúng ta vào một tình thế hoàn toàn không có lối thoát, khiến cho chúng ta không thể tiếp tục chiến tranh được nữa"[103] Để đưa ra quyết định cuối cùng, thủ tướng Suzuki đề nghị vào cung xin Thiên hoàng đưa ra "thiên đoán" (聖断, seidan, có nghĩa là "quyết định thiêng liêng"). Ngày 10 tháng 8, sau khi nghe tin về cuộc tấn công Mãn Châu của Liên Xô và ý kiến của Hội đồng tối cao, Thiên hoàng Chiêu Hòa đưa ra lời phán:




Ngày 15 tháng 8, Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Trong bài phát biểu được truyền trên sóng phát thanh tới toàn thể dân Nhật, ông nói rằng "Chúng ta đã ra lệnh cho Chính phủ của chúng ta liên hệ với Chính phủ Hoa Kỳ, Anh, Trung Quốc và Liên Xô rằng Đế chế của chúng ta chấp nhận các điều khoản trong Tuyên bố chung của họ (tuyên bố Postdam buộc Nhật đầu hàng vô điều kiện)... Nhưng bây giờ cuộc chiến đã kéo dài gần bốn năm. Mặc dù những nỗ lực cao nhất đã được thực hiện bởi tất cả mọi người - những chiến sĩ dũng cảm của các lực lượng lục quân và hải quân, sự siêng năng và kiên trì của các viên chức Nhà nước, và sự cống hiến của 100 triệu người dân của chúng ta - tình hình chiến tranh đã phát triển không thuận lợi Nhật Bản, trong khi tình hình chung trên thế giới đã quay lưng lại với lợi ích của đất nước ta. Hơn nữa, đối phương bây giờ đã có một loại vũ khí mới và khủng khiếp với sức mạnh để tiêu diệt nhiều sinh mạng vô tội và làm thiệt hại khôn lường. Nếu chúng ta tiếp tục chiến đấu, không chỉ nó sẽ dẫn đến kết quả là một sự sụp đổ cuối cùng và xóa bỏ quốc gia Nhật Bản mà còn có thể dẫn đến sự diệt vong hoàn toàn nền văn minh nhân loại...'[105]

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nhật Bản ký văn kiện đầu hàng không điều kiện, sáu năm và một ngày sau khi cuộc thế chiến bắt đầu (kể từ ngày Đức xâm lược Ba Lan). Tuy nhiên di chứng của hai vụ ném bom nguyên tử thì cho đến 70 năm sau, những người dân Nhật vẫn phải gánh chịu.




Chiến tranh thế giới thứ hai đem đến cho dân thường nhiều nỗi đau thương chưa từng thấy. Trong hơn 50 triệu người chết vì chiến tranh trên một nửa là thường dân, bị giết bằng nhiều cách khác nhau. Nhiều người bị chết bởi bom đạn và nhiều hơn nữa vì việc thiếu lương thực và không có dịch vụ cần thiết cộng thêm việc phá hoại nhà cửa, cơ sở hạ tầng và các phương tiện công cộng trong chiến tranh. Nhiều người khác chết vì các cuộc thảm sát có mục tiêu là dân thường để khủng bố tinh thần dân chúng và tiêu diệt lực lượng lao động nhằm hủy diệt khả năng sản xuất của đối phương. Thêm vào đó, nhiều người đã bị hành hình vì lý do quốc tịch, dân tộc và tín ngưỡng.

Được bắt đầu bởi Đức để khủng bố và giảm tinh thần quần chúng trong các vùng thành thị để Đức có thể tiến tới nhanh hơn, chiến tranh chiến lược dùng sức mạnh trên không gian để đánh vào các thành phố địch. Các chiến dịch của Đức có hiệu quả hữu hạn vì mẫu các máy bay ném bom không phù hợp vào việc này và lực lượng không quân còn nhỏ. Sự tàn sát khủng khiếp nhất mà Đức quốc xã thực hiện là diệt chủng một cách có hệ thống người Do Thái tại Đức và nhiều quốc gia Châu Âu khác.

Gần giữa chiến tranh (1943), quân Đồng Minh bắt đầu dùng chiến thuật ném bom hàng loạt vào tận nước Đức. Để tránh sự chồng chéo nguy hiểm, có sự phân công: máy bay Anh thả bom ban đêm còn máy bay Mỹ đánh phá ban ngày. Với nhiều máy bay oanh tạc có tải trọng lớn và đủ khả năng bay đường dài, các trận ném bom này đủ để phá hủy nhiều thành phố Đức. Trong thời gian đầu, khi không quân và phòng không Đức còn mạnh, các cuộc ném bom chỉ thu được ít kết quả. Tuy nhiên tới đầu năm 1945, khi quân đội Đức đã kiệt sức, không quân Anh-Mỹ mặc sức ném bom, họ có thể biến các khu vực đô thị thành một quầng lửa, phá hủy các thành phố. Số thường dân bị chết khá cao, tại Đức có khoảng 300.000 người. Riêng trong một trận oanh tạc thành phố Dresden, có vài chục ngàn dân thường Đức thiệt mạng. Việc các chiến dịch này có giúp đem đến chiến thắng mau hơn vẫn còn chưa rõ.

Dân thường tại Nhật Bản còn bị thiệt hại nặng hơn nữa. Đức có các cơ sở công nghiệp xa khu dân cư nên các cuộc ném bom vào các cơ sở công nghiệp ít gây thiệt hại cho thười dân. Trái lại, các nhà máy công nghiệp của Nhật tập trung ở các thành phố đông dân, dân chúng ở trong các ngôi nhà được xây dựng bằng gỗ (tại Đức nhà cửa phần lớn được xây bằng gạch), dễ bị đốt cháy và đám cháy lan khắp thành phố trong trận ném bom. Thêm vào đó, Mỹ cũng sử dụng các máy bay thả bom mới hơn và lớn hơn tại Đức.

Cú đánh mạnh nhất là hai cuộc tấn công bằng bom nguyên tử vào hai thành phố Hiroshima và Nagasaki. Tổng số người Nhật bị thiệt mạng lên đến 300.000 người lúc ban đầu, và thêm nhiều người chết vì di chứng nhiễm phóng xạ trong nhiều năm kế tiếp. Có sự tranh cãi về việc có cần thiết phải thả bom nguyên tử trên đất Nhật hay không. Phía Mỹ vẫn cho rằng việc này đã dẫn đến việc Nhật đầu hàng một cách mau chóng, tránh thương vong cao cho quân Mỹ nếu đánh vào Nhật bằng chiến tranh quy ước (như kinh nghiệm đánh lên hai đảo Iwo Jima và Okinawa đã cho thấy). Ngược lại, những người phản đối hành động này cho rằng hành động ném bom của Mỹ đã vi phạm nguyên tắc tối thiểu là tránh đánh vào thường dân, bởi ở Hiroshima và Nagasaki hầu hết chỉ là dân thường và chỉ có ít cơ sở quân sự tại đây. Những người này đặt ra câu hỏi: Nếu việc sử dụng bom nguyên tử là cần thiết, tại sao Mỹ lại ném vào thành phố đông dân cư mà không ném vào các căn cứ quân sự lớn của Nhật như quân cảng Yokosuka hay Sasebo? Những người phản đối vụ ném bom tin rằng Mỹ đã hành động theo lối thực dụng: họ muốn các cơ sở quân sự của Nhật còn nguyên vẹn để có thể thu được chiến lợi phẩm là các tài liệu nghiên cứu, vũ khí kiểu mới hoặc các nhà khoa học giỏi của Nhật; việc ném bom thành phố thường cũng đủ gây chấn động mà lại đảm bảo không làm Mỹ mất đi chiến lợi phẩm của mình.


Đức quốc xã[sửa | sửa mã nguồn]


Chiến dịch tàn sát tù binh chiến tranh và thường dân điển hình nhất và có tổ chức nhất là các chương trình được vạch ra và thực hiện bởi Đức quốc xã. Ban đầu chỉ nhắm mục tiêu vào người Do Thái tại nước này, cộng thêm một số nhóm người ít người không ưa thích. Chế độ Đức quốc xã bắt đầu thành lập trại để cách ly các nhóm người này, sau đó dùng lao động cưỡng bách và cuối cùng tiêu diệt hàng loạt. Các nhóm người Do Thái, người đồng tính luyến ái và người có khuyết tật là các mục tiêu đầu tiên, nhưng những người đối lập chính trị như những người theo chủ nghĩa xã hội và các nhân vật tôn giáo (kể cả tín đồ Cơ đốc giáo) lên tiếng cũng bị bắt giữ.


Một khi chiến tranh bùng nổ và phần đất Đức xâm chiếm tăng lên, các lãnh thổ mới chiếm này cũng bị tính trong nỗ lực đó. Riêng Ba Lan đã bị ảnh hưởng rất nhiều, với gần toàn bộ dân số Do Thái tại nước này và một số đông người Cơ đốc giáo đã bị tiêu diệt. Hàng chục triệu Người Nga và các người Slav bị chinh phục khác cũng bị giam cầm tại hơn 100 trại tập trung của Đức trên khắp các vùnh lãnh thổ châu Âu bị nước Đức Quốc xã chiếm đóng. Các trại lớn nhất là Dachau, Buchenwald, Ravensbrück, Ausschwitz, Majdanek, Bergen Belsen, Gusen... Số người được giải phóng khỏi các trại này sau chiến tranh chỉ còn vài trăm nghìn.

Tổng số người đã bị giết trong các trại tập trung, trong các chương trình tiêu diệt và trong khi bị chính quyền Đức ngược đãi có lẽ không bao giờ có thể biết chính xác được. Có một số ước đoán cao hơn 10 triệu người, trong đó 5 tới 6 triệu là người Do Thái bị giết trong các chương trình tiêu diệt có mục đích.


Liên Xô[sửa | sửa mã nguồn]


Theo một số tài liệu phương Tây, kể từ khi tiến vào nước Đức (1944-1945), một bộ phận binh sĩ Hồng quân đã có những hành động trả thù nhằm vào tù binh hoặc dân thường Đức để trả đũa những tàn phá mà quân Đức gây ra cho đất nước mình. Ngoài việc cướp nhà dân và cửa hiệu[106], phương Tây cho rằng Hồng quân Liên Xô đã hãm hiếp hàng chục ngàn phụ nữ và trẻ em người Đức, từ 8 đến 80 tuổi[107][108][109][110]. Theo Franz Wilhelm Seidler, riêng ở Berlin là 20 ngàn tới 100 ngàn, các tỉnh còn lại từ 100 ngàn tới nửa triệu[111][112]. Rất nhiều nạn nhân trong số này bị từ 10 đến 12 lính hãm hiếp tập thể, và đa số bị hãm hiếp nhiều lần[113][114]. Theo Anthony Beevor thì binh lính Hồng quân còn cưỡng hiếp cả những nữ tù binh Liên Xô được giải thoát khỏi các trại giam. Ông cũng cáo buộc chính quyền Liên Xô dù đã nhận được thông tin về những vụ hãm hiếp của Hồng quân nhưng lại cố tình làm ngơ và không có động thái gì để ngăn chặn.[115]. Norman Naimark cho rằng động cơ đằng sau những vụ hãm hiếp của binh lính Liên Xô có thể xuất phát từ "cảm giác tự ti của người Nga" khi chứng kiến mức sống cao hơn của người Đức so với họ, ngay cả trong tình trạng đổ nát . Ông cho rằng ảnh hưởng của rượu cồn và tâm lí muốn trả thù cũng là lí do khiến cho binh lính Hồng quân có những hành vi tàn bạo như vậy đối với dân thường Đức

Tuy nhiên, giới sử học vẫn tranh cãi về tính xác thực và quy mô của những vụ hiếp dâm. Các nhà sử học Nga đã phủ nhận những cáo buộc về hiếp dâm hàng loạt, họ đưa ra bằng chứng là một lệnh từ Bộ chỉ huy tối cao ban hành ngày 19 tháng 1 năm 1945, trong đó ra lệnh cấm binh sĩ ngược đãi thường dân Đức. Một lệnh của Hội đồng quân sự của Phương diện quân Byelorussia số một, có chữ ký của Nguyên soái Rokossovsky, đã ra lệnh xử bắn những binh lính phạm tội trộm cướp và hiếp dâm ngay tại hiện trường của vụ án. Một lệnh ban hành bởi Stavka (Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Hồng quân) vào ngày 20 tháng 4 năm 1945 phổ biến tới binh sĩ rằng cần phải duy trì quan hệ tốt với người dân Đức để giảm kháng cự và để chiến sự kết thúc nhanh hơn.[117]

Trong khu vực chiếm đóng của Liên Xô, các thành viên của SED đã báo cáo cho Stalin biết hành động cướp bóc và hãm hiếp của binh lính Liên Xô có thể dẫn đến một phản ứng tiêu cực của dân Đức đối với Liên Xô và hướng tới tương lai của chủ nghĩa xã hội ở Đông Đức. Stalin đã phản ứng một cách giận dữ: "Tôi sẽ không tha thứ bất cứ ai kéo danh dự của Hồng quân qua vũng bùn."[118][119]

Các nhà lãnh đạo Liên Xô rất bất bình với truyền thông của các nước phương Tây, khi họ vừa mới là đồng minh của họ trên mặt trận chống phát xít thì nay lại quay sang công kích Liên Xô. Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô V. M. Molotov đã gọi những cáo buộc của Phương Tây là một "chiến dịch hèn hạ" nhằm phá hoại uy tín của Hồng quân và trút lên đầu những người lính Hồng quân tất cả những gì xảy ra do sự hỗn loạn trước đó tại những vùng do Liên Xô chiếm đóng. Ông nói: "Liên Xô và những bạn bè của chúng tôi trên thế giới đã có những thông tin cần thiết để chống lại chiến dịch tuyên truyền này".[120]

Tướng Gareyev, chủ tịch của Học viện Khoa học Quân sự Nga, nhận xét[121]:


Tư lệnh tối cao Stalin đã ký một quyết định ngày 19 tháng 1 năm 1945, theo đó binh sĩ bị cấm tất cả các hành vi bạo lực chống lại dân thường Đức. Tất nhiên, sự trả thù, bao gồm cả bạo lực tình dục, đã xảy ra. Một số binh sĩ chỉ đơn giản là không thể kiềm chế tức giận sau những gì Đức quốc xã đã làm trên đất nước chúng tôi. Nhưng các trường hợp này đã bị trừng phạt nghiêm khắc. Và việc trả thù đã không trở nên phổ biến. Bởi vì ngay khi chúng tôi chiếm đóng các thành phố, kỷ luật đã được thắt chặt. Chúng tôi cung cấp cho người dân Đức thực phẩm, chăm sóc y tế, tuần tra an ninh. Cá nhân tôi đã tham gia giải phóng Đông Đức. Tôi cam đoan, việc lạm dụng tình dục thậm chí không hề được nghe thấy.

Theo Oleg Rzheshevsky người đứng đầu Viện Hàn lâm Khoa học Nga, mặc dù có nhiều trường hợp đã xảy ra những hành vi thái quá thì "đa số binh sĩ và quan chức của Liên Xô cũng như quân Đồng minh đã đối xử với người dân địa phương một cách nhân đạo" [122]. Ông cũng cho rằng những tội ác như hành động tấn công tình dục là một phần không thể tránh khỏi của chiến tranh [123].

Một phụ nữ Berlin, Elizabeth Shmeer, cho biết[124]:


Đức quốc xã nói rằng nếu người Nga đến đây, họ sẽ tàn phá và hãm hiếp khủng khiếp. Nhưng thực tế sau đó rất khác: dù là những người bại trận, quân đội Đức đã gây ra rất nhiều đau khổ cho nước Nga, nhưng những người chiến thắng đã cho chúng tôi thực phẩm còn nhiều hơn những gì chính quyền cũ phân phát. Đối với chúng tôi điều đó rất khó hiểu. Một cách cư xử nhân đạo như vậy dường như chỉ người Nga làm được.

Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]



Nhiều trận ném bom rải thảm của không quân Mỹ đánh thẳng vào các thành phố đông dân cư đã khiến cho hàng trăm nghìn thường dân Đức và Nhật bị thiệt mạng. Riêng trong một trận oanh tạc thành phố Dresden, có tới vài chục ngàn dân thường Đức thiệt mạng. Các vụ ném bom Tokyo cũng khiến ít nhất 100.000 thường dân Nhật Bản thiệt mạng.

Đặc biệt, Mỹ đã để lại một dấu ấn kinh hoàng cho cả thế giới cho tới ngày hôm nay. Đó là vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki lúc chiến tranh gần kết thúc. Theo lệnh của Tổng thống Harry S Truman, Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử thứ nhất mang tên "Little Boy" đã được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Sau đó 3 hôm, ngày 9 tháng 8 năm 1945, quả bom thứ hai mang tên "Fat Man" đã phát nổ trên bầu trời thành phố Nagasaki.

Các số liệu khác nhau bởi được thống kê vào các thời điểm khác nhau. Rất nhiều nạn nhân chết sau nhiều tháng, thậm chí nhiều năm bởi hậu quả của phóng xạ. Theo ước tính, 140.000 người dân Hiroshima đã chết bởi vụ nổ cũng như bởi hậu quả của nó. Số người thiệt mạng ở Nagasaki là 74.000. Ở cả hai thành phố, phần lớn người chết là thường dân.

Các công dân của các nước Đồng Minh cũng phải chịu đau khổ trong các trường hợp họ là con cháu của những người đến từ các nước phe Trục. Điển hình là việc 120.000 người Mỹ gốc Nhật đã bị chính phủ Mỹ ra lệnh niêm phong tài sản và bị giam giữ ở các trại tập trung giữa sa mạc trong thời kỳ chiến tranh (từ 1942 tới 1945), với lý do để đề phòng nguy cơ gián điệp.

Theo J. Robert Lilly thì khi tiến quân vào Đức, binh lính Mỹ cũng đã nhiều lần hãm hiếp những người phụ nữ địa phương. Ông ước tính số vụ hãm hiếp của binh lính Mỹ tại Đức là 11.000 vụ [125]. Carol Huntington thì lại cho rằng đa số những vụ tấn công tình dục của lính Mỹ đối với phụ nữ Đức có vẻ giống hành vi mua dâm hơn là cưỡng hiếp, ông cũng ghi nhận nhiều trường hợp những phụ nữ Đức sau khi quan hệ tình dục với người lính Mỹ đã được họ phân phát cho đồ ăn hoặc tiền mặt.


Anh[sửa | sửa mã nguồn]


Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland đã bị thất bại nặng nề trong cuộc chiến với quân đội Nhật Bản tại Trận Singapore năm 1942, quân Nhật cũng đang tiến hành xâm lược Miến Điện thuộc Anh trong năm đó. Giới chức Anh sợ rằng một cuộc xâm lược Ấn Độ thuộc Anh tiếp theo của Nhật Bản có thể thực hiện bằng cách thích hợp thông qua lối Bengal (xem British Raj), và các biện pháp khẩn cấp đã được áp dụng để tích trữ lương thực cho lính Anh, bao gồm cả việc giành lấy lương thực của nhân dân Ấn Độ. Hậu quả là Nạn đói Bengal năm 1943 thảm khốc năm 1943 khiến 5 triệu người Ấn Độ thiệt mạng.

Dấu ấn kinh hoàng về nạn đói này cũng khiến tinh thần phản kháng của người dân Ấn Độ chống sự cai trị của thực dân Anh ngày càng dâng cao, góp phần buộc Anh phải trao trả độc lập cho Ấn Độ vào năm 1947.


Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]


Ví dụ về các tội ác chiến tranh của các lực lượng Trung Quốc bao gồm:


  • Vào năm 1937 gần Thượng Hải, vụ giết hại, tra tấn và tấn công tù binh Nhật Bản và các thường dân Trung Quốc bị cáo buộc hợp tác với Nhật, được ghi lại trong tấm ảnh được chụp bởi doanh nhân Thụy Sĩ Tom Simmen.[126] (Năm 1996, con trai của Simmen phát hiện hình ảnh, hiển thị những người lính Trung Hoa Quốc Dân Đảng đã hành quyết dân chúng và binh lính Nhật bằng cách chém đầu và xử bắn, cũng như tra tấn công khai)

  • Cuộc nổi loạn Tungchow tháng 8 năm 1937, lính Trung Quốc tuyển mộ bởi chính Nhật Bản đã nổi loạn và chuyển vào bên trong Tongzhou, Bắc Kinh, trước khi tấn công thường dân Nhật Bản và giết chết 280 người.

  • Quân Quốc Dân đảng ở tỉnh Hồ Bắc, vào tháng 5 năm 1943, ra lệnh cho toàn bộ thị trấn chuyển đi và sau đó "cướp bóc" của cải còn lại, bất kỳ dân thường đã từ chối hoặc không chuyển đi, đều bị sát hại.

Pháp[sửa | sửa mã nguồn]


Đội quân người Ma-rốc thuộc Quân đoàn viễn chinh của Pháp, còn được gọi là Goumiers, đã tiến hành một loạt các hành vi tàn bạo đối với dân thường ở Ý trong và sau trận đánh Monte Cassino [127] cũng như ở Đức [128] Theo một số nguồn tin của Ý, hơn 12.000 thường dân, trong đó có nhiều người già và trẻ em, đã bị các Goumiers bắt cóc, cưỡng hiếp hoặc giết chết [129].


Nhật[sửa | sửa mã nguồn]


Trong khi Holocaust do Đức gây ra rất có tổ chức và được nhiều người biết đến, số người bị giết có thể sánh được với số thường dân bị lực lượng Nhật tàn sát tại Trung Quốc. Tương tự như cách nhìn của Đức đối với các dân tộc sống ở vùng Đông Âu, người Nhật xem người Trung Quốc và Đông Nam Á là "mọi rợ" và giới lãnh đạo chẳng những xem các tội ác chiến tranh là lẽ thường mà còn khuyến khích việc đó. Một trong những tội ác tàn bạo nhất của quân Nhật trong cuộc chiến với Trung Quốc là vụ Thảm sát Nam Kinh vào năm 1937 trong đó có khoảng 50.000- 300.000 thường dân Trung Quốc đã bị hãm hiếp và giết hại.

Các ước tính số người bị chết do các hành vi này còn rất thiếu chính xác, nhưng có thể cao hơn 10 triệu, cộng thêm một số lượng lớn phụ nữ bị hãm hiếp có thể nhiều hơn các thống kê hiện tại. Một số khu vực dưới sự kiểm soát của Nhật bị nạn đói thảm khốc do quân Nhật cướp lương thực của người bản địa để chuyển về Nhật (do nước Nhật vào cuối chiến tranh đã lâm vào tình trạng thiếu lương thực), như Nạn đói năm Ất Dậu 1945 tại miền Bắc Việt Nam.



Hậu quả trực tiếp của chiến tranh này là sự chiến thắng của phía Đồng Minh. Mỗi nước trong phe Trục đều phải đầu hàng vô điều kiện. Đức bị các lực lượng từ Mỹ, Anh, Liên Xô và Pháp chiếm đóng, trong khi Áo bị chia cắt từ Đức và cũng bị chiếm đóng một cách tương tự. Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng trong khi Liên Xô chiếm đóng các nước Đông Âu.



Trái với Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi các giới hạn làm suy yếu các nước và các nước thua cuộc bị ngăn chặn việc tái hội nhập cộng đồng quốc tế, các nước thua cuộc đã được cung cấp viện trợ để phục hồi và hội nhập cộng đồng thế giới như các quốc gia hoà bình khác. Vì lẽ đó, Đức và Nhật đã trở thành hai nước quan trọng và có nhiều ảnh hưởng mà không cần phải khiêu chiến.

Sự thất bại của Hội Quốc Liên trong việc ngăn chặn chiến tranh đã dẫn đến việc thành lập Liên Hiệp Quốc, một tổ chức quốc tế mới và có nhiều sửa đổi, cho đến nay vẫn là tổ chức quan trọng nhất trong việc thúc đẩy hoà bình và hợp tác.


Số người chết[sửa | sửa mã nguồn]


Tại châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]


Thống kê năm 1965 của Liên Hợp Quốc cho biết chỉ riêng số người thiệt mạng do chiến tranh ở châu Âu đã lên đến 49.257.000 người. Những nước chịu thiệt hại lớn nhất gồm:


  • Liên Xô: 21.000.000 người (theo tài liệu nghiên cứu của Krivosheev năm 2005, con số này có thể lên tới 26.600.000 người, bao gồm 8,7 triệu quân nhân và hơn 18 triệu thường dân[130])

  • Đức: 9.700.000 người (theo tài liệu nghiên cứu năm 2000 của tiến sĩ Rüdiger Overmans, con số này bao gồm 5.300.000 quân nhân, 3.170.000 thường dân và 1.400.000 người Đức ở các quốc gia khác)

  • Ba Lan: 6.028.000 người (theo tài liệu của Viện IPN - Ba Lan năm 2000, con số này là 5.600.000 đến 5.800.000 người, trong đó có khoảng 3.000.000 người Do Thái)

  • Nam Tư: 1.600.000 người

  • Pháp: 620.000 người

  • Italia: 890.000 người [131]

  • Tiệp Khắc: 364.000 người

  • Hoa Kỳ: 325.000 người

  • Anh: 320.000 người.

Tại châu Á - Thái Bình Dương[sửa | sửa mã nguồn]


  • Hoa Kỳ: khoảng 300.000 người

  • Nhật Bản: khoảng 2.200.000 người

  • Trung Quốc: ước tính 15-20.000.000 người[132]

  • Hai miền Triều Tiên: khoảng 1.000.000 người

  • Ấn Độ: 2.587.000 người, chưa kể 5 triệu người chết do Nạn đói Bengal năm 1943

  • Việt Nam: gần 2.000.000 người (chủ yếu do Nạn đói năm Ất Dậu, năm 1944-1945)

  • Indonesia: khoảng 3.000.000 đến 4.000.000 người

Hậu quả lâu dài[sửa | sửa mã nguồn]


Chiến tranh thế giới thứ II làm thay đổi căn bản tư duy chính trị quốc tế của các cường quốc trên thế giới. Sau cuộc chiến này, nhiều quốc gia từ bỏ tư duy bá quyền, dùng sức mạnh để xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia khác. Quan hệ quốc tế từ dựa trên sức mạnh, "cá lớn nuốt cá bé", chuyển sang quan hệ bình đẳng, cùng tồn tại hòa bình. Đồng thời ngay sau chiến tranh, phe Đồng Minh đã bị rạn nứt khi có xung đột về hệ tư tưởng. Mỗi phía đã giành một khu vực khác nhau trong các lãnh thổ phe Trục. Tại châu Âu, mỗi phía liên minh với nhau trong khu vực ảnh hưởng. Về phía tây, các nước Mỹ, Anh và Pháp đã lập ra Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Về phía đông, Liên Xô lập ra liên minh với các nước Đông Âu khác trong Hiệp ước Warszawa. Xung đột giữa hai phái sau này là một trong những hậu quả của cuộc chiến tranh này.

Khắp mọi nơi, các phong trào chống thực dân phát triển mạnh hơn khi chiến tranh kết thúc. Điều này xuất phát từ hệ quả của Chiến tranh thế giới thứ hai:


  • Những thiệt hại của các cường quốc châu Âu trong cuộc chiến này khiến họ mất đi rất nhiều năng lực quân sự và kinh tế khả dĩ có thể duy trì hệ thống thuộc địa. Trong khi đó các dân tộc thuộc địa đã chống lại một cách sống còn, quyết không nhân nhượng (như trường hợp Việt Nam, Algérie).

  • Thời kỳ bị Đức chiếm đóng đã gây nên tác động sâu sắc đến tâm lý các dân tộc châu Âu. Họ biết đến mất mát của chiến tranh và nỗi khổ đau khi phải chịu ách thống trị. Điều này ít nhiều đã ảnh hưởng đến quyết tâm muốn trở lại cai trị các dân tộc thuộc địa của họ. Đồng thời họ cũng nhận thức rằng sự tồn tại của chủ nghĩa thực dân và tư duy bá quyền trong quan hệ chính trị quốc tế chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến này. Các nước Đồng Minh đã ký Hiến chương Đại Tây Dương cam kết giải phóng cho các thuộc địa và giải trừ quân bị sau khi thế chiến thứ II kết thúc nhằm xây dựng một thế giới mới tốt đẹp hơn và tránh lặp lại những cuộc chiến tương tự trong tương lai.

  • Các cuộc chiếm đóng của Đức Quốc xã ở Bắc Phi và Nhật Bản ở châu Á đã tàn phá uy tín của Anh, Pháp, Hà Lan đối với hệ thống thuộc địa của họ. Các dân tộc thuộc địa đã nhận thức được rằng những cường quốc cai trị mình vẫn có thể bị đánh bại.

  • Sự trỗi dậy của Mỹ và việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô cũng tạo ra sự ủng hộ cho phong trào giải phóng dân tộc vì hai nước này muốn xóa bỏ chủ nghĩa thực dân, thiết lập một trật tự thế giới mới, lôi kéo các nước thuộc địa mới giành được độc lập trở thành đồng minh, thâm nhập thị trường và khai thác tài nguyên tại các nước từng là thuộc địa. Các đế quốc tại Tây Âu phải phụ thuộc vào viện trợ Mỹ để tái thiết nên chịu áp lực chính trị của Mỹ phải phóng các thuộc địa. Hơn nữa Mỹ và Liên Xô đều hình thành dựa trên hệ tư tưởng chống chủ nghĩa thực dân. Mỹ từng là thuộc địa của Anh và đã chiến đấu để giành độc lập còn Liên Xô là liên minh các quốc gia từng là các tỉnh, các chư hầu của Đế quốc Nga đã giành độc lập sau khi chế độ Sa hoàng sụp đổ.

  • Phong trào giải phóng dân tộc xảy đến là sự tất yếu. Những điều kiện vào cuối cuộc Thế chiến thật sự là cơ hội lớn cho các nước thuộc địa.

Một vài cuộc xung đột đã trở thành chiến trường cho các cường quốc trong Chiến tranh Lạnh, thậm chí có nhiều cuộc đã xảy ra trước khi Chiến tranh Lạnh bắt đầu. Hai nước Anh và Pháp đã phải từ bỏ phần lớn các thuộc địa sau chiến tranh. Ấn Độ giành được độc lập từ Anh và Philippines giành độc lập từ Mỹ. Tại Đông Dương và nhiều thuộc địa tại châu Phi, các lực lượng kháng chiến phải chiến đấu mới giành được độc lập từ tay Anh, Pháp, Hà Lan.

Một quốc gia quan trọng đã xuất hiện là Israel. Sau cuộc thảm sát Holocaust, dân Do Thái trên thế giới rất khao khát có được một quốc gia riêng. Nhiều người Do Thái đã có kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh (họ là cựu quân nhân Mỹ, Anh, Liên Xô), đây là điều thuận lợi khi quốc gia này luôn phải đương đầu để được độc lập và tồn tại.


Các nước tham chiến và hậu quả[sửa | sửa mã nguồn]


Khối Đồng Minh[sửa | sửa mã nguồn]


Ở mặt trận châu Âu, nước Đồng Minh tham chiến chủ yếu là Liên Xô, nơi mà phe Trục tập trung 80% binh lực cho mặt trận này. Từ tháng 7/1944, quân Mỹ-Anh đổ bộ lên Tây Âu, mở mặt trận thứ 2 ở phía Tây Âu, nhưng phe Trục cũng chỉ dành ra 1/3 lực lượng để tác chiến ở mặt trận này. Ngoài ra, so với Liên Xô, Mỹ-Anh có điểm thuận lợi hơn: lãnh thổ của họ không bị lục quân đối phương tấn công (do được ngăn cách với Đức bởi đại dương), nên họ có thể sản xuất vũ khí một cách tương đối an toàn, trong khi Liên Xô phải sơ tán hàng loạt nhà máy ngay từ đầu chiến tranh để tránh lọt vào tay quân Đức. Như vậy, trong các nước Đồng Minh, Liên Xô phải gánh chịu áp lực chiến tranh nặng nhất.

Trong quá trình chiến tranh, Liên Xô đã nhận được khoảng 17,9 triệu tấn hàng hóa của Mỹ-Anh theo chương trình lend-lease (cho vay - cho thuê), tương đương 9,8 tỷ USD (thời giá 1945). Một số quan điểm cho rằng Phương Tây đã thổi phồng quá mức vai trò của khoản viện trợ cho Liên Xô. Tổng giá trị viện trợ chỉ bằng 4% tổng lượng sản xuất của Liên Xô trong những năm chiến tranh (trong khi Liên Xô phải chống đỡ 70% binh lực của Đức và chư hầu). Do vậy, những quan điểm này đã cho rằng viện trợ lend-lease đóng góp không đáng kể vào chiến thắng của các lực lượng vũ trang Xô viết. Ngoài ra, viện trợ trong năm 1941 (khi Liên Xô đang cần nhất) lại khá nhỏ giọt, trong khi tới 56,5% giá trị viện trợ lend-lease chỉ đến Liên Xô vào năm cuối cùng của cuộc chiến tranh (từ tháng 1/1944 tới tháng 5/1945)[133], khi đó mức sản xuất của Liên Xô đã vượt xa Đức nhiều lần. Chưa kể nhiều học giả Xô viết cho biết rằng những loại vũ khí mà Mỹ viện trợ cho Liên Xô trong giai đoạn này bị binh sĩ Hồng quân chê bai khá nhiều và ít khi sử dụng (ví dụ như xe tăng M3 Stuart hay tiểu liên Thompson bị đánh giá là thiếu sức mạnh và dễ hỏng hóc so với vũ khí tương ứng do Liên Xô chế tạo như T-34 và PPSh-41) [cần dẫn nguồn].

Nhà ngoại giao Vyacheslav Molotov tuyên bố năm 1945 rằng "đất nước ta đã cung cấp tất cả các yếu tố cần thiết cho quân đội anh hùng của chúng ta". Các nhà sử học khác như Roger Munting đã lập luận rằng sự viện trợ của Đồng minh (Lend-Lease) không bao giờ chiếm hơn 4% sản lượng công nghiệp thời chiến của Liên Xô[134] Các số liệu cho thấy vũ khí Lend-Lease chỉ cung cấp một đóng góp nhỏ cho nỗ lực chiến tranh của Liên Xô (chiếm chưa đầy 2% pháo binh, 12% số máy bay, 10% số xe tăng mà Liên Xô sử dụng)[135]

Harry Lloyd Hopkins, cố vấn của Tổng thống Roosevelt, nhận định: “Chúng tôi chưa bao giờ cho rằng sự giúp đỡ của chúng ta dưới hình thức lend-lease là yếu tố chính trong thắng lợi của Liên Xô trước Hitler ở mặt trận phía đông. Chiến thắng đó đạt được bằng sự dũng cảm và máu của quân đội Nga”. Nhà sử học Mỹ George C. Herring thẳng thắn hơn: “Lend-lease không phải là hành động vô tư. Đây là một hành động có tính toán, vị kỷ và người Mỹ luôn hình dung rõ ràng những món lợi mà họ có thể thu được từ hành động đó”. Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã khẳng định rằng việc giúp đỡ Liên Xô cũng chính là vì lợi ích của Mỹ, bởi nếu Liên Xô thất bại thì chính Mỹ sẽ là mục tiêu kế tiếp, Roosevelt so sánh rằng "một vòi cứu hỏa nên được trao cho một người hàng xóm để ngăn chặn lửa cháy lan đến nhà riêng của chính mình". Thực tế viện trợ của Mỹ không phải là sự ban tặng, bản thân tên gọi của nó ("Lend-lease", nghĩa là "cho vay - cho thuê") đã cho thấy nó vẫn là một dạng hợp đồng "bán vũ khí - trả tiền sau" chứ không phải là cho không. Trong và sau chiến tranh, Liên Xô đã phải trả nợ (tính kèm lãi suất) cho những hàng hóa, vũ khí mà Mỹ đã viện trợ cho họ, hình thức trả nợ gồm nhiều tàu chở kim loại quý như bạch kim trị giá hàng tỷ USD Mỹ là nước duy nhất trong khối Đồng minh hầu như không bị tàn phá mà còn thu được những nguồn lợi kinh tế khổng lồ từ cuộc chiến tranh[136].

Một số ý kiến khác lại khẳng định rằng Lend-Lease thực sự có ý nghĩa lớn trong chiến thắng của Liên Xô trước Đức Quốc xã. Vào thời điểm ấy việc vận chuyển vũ khí và nhu yếu phẩm của Liên Xô phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động vận tải đường sắt, nhưng Liên Xô đã chấm dứt sản xuất các thiết bị vận tải đường sắt kể từ năm 1941. Lend-Lease đã cung cấp tới 92% tổng số các thiết bị đường sắt cho Liên Xô[137][138][139] bao gồm 1,911 đầu máy xe lửa và 11,225 toa tàu lửa. Hàng trăm ngàn xe vận tải do Mỹ sản xuất và cung cấp cho Liên Xô giai đoạn này, bao gồm cả những dòng xe tốt nhất vào thời điểm đó như Dodge hay Studebaker, đã hỗ trợ to lớn về hậu cần cho binh lính Hồng quân. Vào năm 1945, gần 1/3 lực lượng xe tải vận chuyển của quân Liên Xô trên chiến trường được sản xuất ở Mỹ. Từ năm 1942, đa số các bệ phóng tên lửa Katyusha của Hồng quân đều được lắp đặt trên những chiếc xe tải do Mỹ viện trợ, đem lại hiệu quả chiến đấu cao hơn hẳn so với những chiếc xe tải của Liên Xô sản xuất [140]. Các nước Đồng minh cũng đã cung cấp 2,586 triệu tấn nhiên liệu máy bay cho không quân Liên Xô, gấp 1,4 lần so với lượng nhiên liệu máy bay mà Liên Xô tự sản xuất được trong toàn bộ cuộc chiến tranh [139]. Mỹ còn viện trợ một số lượng lớn các phương tiện liên lạc, thức ăn đóng hộp và quần áo cho Liên Xô trong cuộc chiến[141]. Joseph Stalin tại hội nghị Tehran đã công nhận: "Nếu không có nền công nghiệp sản xuất của Mỹ, phe Đồng minh có lẽ sẽ không bao giờ thắng được cuộc chiến này"[142][143]. Nguyên soái Liên Xô Georgi Konstantinovich Zhukov trả lời trong một cuộc phỏng vấn năm 1963 rằng: "Ngày nay có một số người nói rằng quân Đồng minh đã không thực sự giúp đỡ chúng tôi... Nhưng hãy nghe tôi nói, chúng ta không thể phủ nhận được rằng người Mỹ đã cung cấp cho chúng tôi những thứ thiết yếu [thông qua Lend-Lease] mà nếu không có nguồn viện trợ này chúng tôi đã không thể trang bị cho quân đội để dự trữ hoặc thậm chí không thể tiếp tục cuộc chiến tranh"[144]. Lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev về sau viết trong cuốn hồi ký của ông: "Đầu tiên, tôi muốn nói về một số nhận xét mà Stalin đã đưa ra và lặp đi lặp lại nhiều lần khi chúng tôi "tự do thảo luận" với nhau. Ông ấy đã nói thẳng thừng rằng nếu Hoa Kỳ không giúp đỡ chúng ta [Liên Xô], chúng ta sẽ không thể giành được chiến thắng. Nếu chúng ta phải một mình chiến đấu với Đức Quốc xã, chúng ta đã không thể chống đỡ nổi sức mạnh của quân Đức, và chúng ta chắc chắn sẽ thua cuộc chiến tranh[...] Khi tôi lắng nghe những nhận xét này của ông ấy, tôi đã hoàn toàn đồng ý với ông ấy, và đến ngày hôm nay tôi thậm chí còn đồng ý hơn thế nữa."[145]. Theo nhà sử học Nga Boris Vadimovich Sokolov, người đã từng có 30 năm sống dưới thời Xô viết, Lend-Lease đã đóng một vai trò rất quan trọng, thậm chí là quyết định trong chiến thắng của Hồng quân: "Tóm lại, có thể rút ra kết luận: rằng nếu không có những chuyến hàng của phương Tây theo chương trình viện trợ Lend-Lease, Liên bang Xô viết không những không thể chiến thắng cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, họ thậm chí còn không thể chống lại quân xâm lược Đức, họ không thể sản xuất đủ vũ khí và trang thiết bị quân sự hoặc cung cấp đủ nhiên liệu và đạn dược cho binh lính. Giới lãnh đạo Xô viết đã nhận thức rõ được sự phụ thuộc vào Lend-Lease.[139]"

Quan điểm hiện đại dung hòa 2 quan điểm trên, theo đó "lend - lease" không phải là quan trọng sống còn với Liên Xô, nhưng cũng không phải là vô ích. Một số sử gia hiện đại như M. Harison tin rằng nếu không có "lend - lease", Liên Xô vẫn sẽ chiến thắng, nhưng chiến thắng đó sẽ đến chậm hơn vài tháng. Ngược lại, nếu không có sự tham gia của Liên Xô (chống đỡ 70% lực lượng Đức và chư hầu) thì các nước Đồng Minh còn lại cũng sẽ khó có thể đánh bại được khối Phát xít ở châu Âu[146]

Cùng với việc nhận hàng lend-lease từ các nước đồng minh, Liên Xô cũng viện trợ ngược cho các nước này. Trong các năm chiến tranh, các nước đồng minh cũng đã nhận từ Liên Xô 300.000 tấn quặng crom và mangan, gỗ, vàng và bạch kim. Liên Xô đã cung cấp một số lượng không rõ các lô hàng khoáng sản quý hiếm cho Hoa Kỳ như một hình thức chi trả cho hàng lend-lease do Mỹ cung cấp, điều này đã được thỏa thuận trước khi ký kết nghị định thư đầu tiên vào ngày 1 tháng 10 năm 1941. Một số trong những lô hàng này đã bị phát hiện bởi người Đức. Vào tháng 5 năm 1942, HMS Edinburgh bị chìm trong khi mang theo 4,5 tấn vàng của Liên Xô chở đến cho Hoa Kỳ. Vào tháng 6 năm 1942, SS Port Nicholson bị chìm trên đường từ Halifax, Nova Scotia đến New York, trên tàu chở rất nhiều bạch kim, vàng và kim cương công nghiệp của Liên Xô, xác tàu được phát hiện năm 2008[147] Chuyên gia quân sự Nga Andrey Chaplygin kết luận rằng Liên Xô vẫn sẽ chiến thắng trong cuộc thế chiến dù không có lend - lease, nhưng chương trình này cũng giúp Liên Xô giảm thiểu tổn thất trên con đường đi đến Chiến thắng. Còn đối với Mỹ thì lend - lease trước hết, như chính Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã từng nói: “Đó là một khoản đầu tư sinh lời”[148].


Phe Trục[sửa | sửa mã nguồn]


Ở châu Âu, cường quốc phe Trục tham chiến chủ yếu là Đức. Đức Quốc xã nhận được sự hỗ trợ từ 9 nước đồng minh (phát xít Ý, Romania, Bulgaria, Hungary, Phần Lan, Slovakia, Croatia, Vichy Pháp, Tây Ban Nha) và một số vùng lãnh thổ chiếm đóng, 9 nước này đã cung cấp cho Đức khoảng 20% quân số, 1/3 số lao động và hơn một nửa lượng nguyên vật liệu để sản xuất vũ khí. Trên thực tế, Đức Quốc xã không tham chiến riêng lẻ mà đã huy động nguồn nhân lực, toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ nền công nghiệp quân sự của toàn Tây Âu và Trung Âu vào cuộc chiến, trong đó 75% binh lực được dùng để chống Liên Xô[149]

Ở châu Á, cường quốc phe Trục tham chiến chủ yếu là Nhật Bản. Tuy nhiên, tiềm năng kỹ nghệ của Nhật yếu hơn so với các nước Đức, Liên Xô, Anh, Mỹ do nước này thiếu các nguồn tài nguyên một cách trầm trọng. Nhật buộc phải nhập khẩu các nguyên liệu như sắt, dầu hoả và than đá vì thiếu các tài nguyên thiên nhiên ở trong nước để duy trì sản xuất công nghiệp vũ khí. Vì vậy, Nhật Bản thành lập một loạt chính phủ bù nhìn ở các vùng chiếm đóng để hỗ trợ quân Nhật khai thác tài nguyên phục vụ chiến tranh. Tiêu biểu như Mãn Châu quốc, Chính phủ Uông Tinh Vệ, chính phủ Thái Lan dưới thời thống chế Plaek Pibulsonggram, chính phủ đệ nhị Cộng hòa tại Philipines, chính phủ Đế quốc Việt Nam...[150].


Hậu quả[sửa | sửa mã nguồn]



Tất cả mọi quốc gia trên thế giới đều bị Chiến tranh thế giới thứ hai ảnh hưởng ít nhiều. Phần lớn đã tham chiến theo phía Đồng Minh hay phe Trục, và một số đã theo cả hai. Một số nước được thành lập vì chiến tranh, và một số không tồn tại được.

8 Cường Quốc tham chiến quan trọng nhất được liệt kê sau đây:


  • Đức: Cường quốc chính của phe Trục tại châu Âu và nước cầm đầu trong chủ nghĩa phát xít, chiến tranh bắt đầu khi Đức xâm lược Ba Lan, và chiến tranh chấm dứt tại chiến trường châu Âu sau khi Đức đầu hàng.

  • Pháp: Lực lượng chính của Đồng Minh tại lục địa châu Âu, Pháp đã tuyên chiến với Đức sau việc xâm lược Ba Lan. Pháp không hăng hái trong việc tham chiến và không chống cự nổi lực lượng Đức sau khi bị xâm lược vào năm 1940. Khi chính quyền Pháp đầu hàng nhục nhã, đất nước bị mất vào tay Phát Xít, một chính quyền bù nhìn thân Đức được thành lập ở miền nam với danh nghĩa cai quản phần còn lại của nước Pháp không bị Đức chiếm đóng, nhưng một số thuộc địa của Pháp vẫn trung thành với lực lượng Pháp Tự do vốn đứng về phía Đồng minh.

  • Anh: Trong khi Anh không có khả năng sản xuất và nhân lực to lớn như Mỹ hay Liên Xô, họ vẫn là một Cường Quốc quan trọng, có nhiều đóng góp xuất sắc trong việc chiến thắng của lực lượng Đồng Minh trên cả hai chiến trường. Anh được coi là lực lượng có vai trò lớn nhất trong chiến thắng của phe Đồng minh tại chiến trường Bắc Phi.

  • Ý: Một đồng minh của Đức vào ban đầu, Ý có rất nhiều tham vọng lãnh thổ. Họ chỉ tham chiến sau khi số phận của Pháp đã an bài. Nỗ lực chiếm Hy Lạp và Ai Cập thất bại, thêm vào đó nhiều thất bại hải quân tại vùng Địa Trung Hải đã cho thấy Ý không đủ chuẩn bị cho cuộc chiến tranh này. Sức chiến đấu kém, tinh thần bạc nhược ngay cả khi chiến đấu trên lãnh thổ của mình cũng như sự lãnh đạo yếu kém đã khiến Ý thất bại. Sau khi bị quân Đồng Minh xâm chiếm, nước Ý phát xít bị sụp đổ, một chính quyền mới thành lập theo phía Đồng Minh và đánh lại đồng minh Đức của họ.

  • Liên Xô: Ban đầu họ muốn lập liên minh với Anh, Pháp nhưng không thành, nên sau đó chuyển sang ký hòa ước với Đức. Tuy nhiên, sau khi Đức thình lình tấn công vào năm 1941, Liên Xô theo phía Đồng Minh. Liên Xô bị nhiều tổn thất trước quân đội Đức, nhưng cuối cùng cũng thay đổi chiều hướng và chiếm đóng Berlin để chiến thắng tại châu Âu. Chính tại mặt trận Xô - Đức, quân đội phe Trục đã phải gánh chịu những tổn thất to lớn nhất: theo số liệu gần đây thì tổng số quân Đức bị chết, bị thương hoặc bị bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai là gần 14 triệu người, trong đó riêng ở mặt trận Xô - Đức là 11,3 triệu người, chưa kể hơn 1,2 triệu quân Nhật và đồng minh châu Á của Nhật bị Liên Xô tiêu diệt hoặc bắt giữ trong Chiến dịch Mãn Châu. Liên Xô được coi là lực lượng có đóng góp lớn nhất trong chiến thắng của phe Đồng Minh tại Châu Âu.

  • Nhật Bản: Một trong những cường quốc phe Trục, Nhật Bản có lý do tham chiến riêng. Do không đủ tài nguyên để phục vụ cho nền công nghiệp ngày càng phát triển, Nhật đã nỗ lực giành tài nguyên từ khu vực tây Thái Bình Dương và Đông Á. Nhưng họ không đủ tiềm lực để đánh bại quân Đồng Minh, và đã bị đẩy lùi và cuối cùng bị thả bom nguyên tử, cuối cùng Nhật Bản phải đầu hàng không điều kiện.

  • Trung Quốc: quốc gia Đông Á này từng là nền văn minh hàng đầu thế giới nhưng tụt hậu trước sự phát triển mạnh mẽ của nền văn minh phương Tây nên bị các đế quốc phương Tây và Nhật Bản chèn ép. Sau 10 năm phát triển (Nam Kinh thập kỷ) cũng như có sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, năm 1941, Trung Quốc gia nhập phe Đồng minh và trở thành một trong ngũ cường chủ chốt lãnh đạo phe Đồng minh cùng với Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh và Pháp. Họ đã khống chế thành công hơn 1 triệu quân Nhật ở vùng Đông Bắc cũng như cầm chân quân Nhật ở các tỉnh phía Đông. Trung Quốc quá rộng lớn nên người Nhật không đủ quân cũng như khả năng hậu cần để tiếp tục tiến sâu vào lãnh thổ Trung Quốc. Tuy vậy, nội bộ Trung Quốc bị chia rẽ giữa hai phe Quốc - Cộng, giữa chính quyền trung ương và các quân phiệt địa phương nên Trung Quốc không thể tập trung toàn lực chống phát xít Nhật.

  • Hoa Kỳ: Ban đầu duy trì chính sách trung lập, Hoa Kỳ bán hàng hóa và vũ khí cho cả hai phe và không tỏ thái độ chống lại bên nào. Tuy nhiên vào cuối năm 1941, Hoa Kỳ bị cuốn vào chiến tranh khi Nhật tấn công bất ngờ và Đức tuyên chiến. Hoa Kỳ dùng khả năng kinh tế và công nghiệp an toàn để tiếp tế cho tất cả các nước Đồng Minh và đã tạo lực lượng và duy trì nỗ lực tại châu Âu và Thái Bình Dương. Hoa Kỳ cũng là nước tham gia trên nhiều mặt trận nhất và viện trợ nhiều nhất cho các nước Đồng Minh. Hoa Kỳ là nước duy nhất tham chiến mà lãnh thổ và nền kinh tế hầu như không bị chiến tranh tàn phá, đã vậy họ còn thu được lợi từ các hợp đồng bán vũ khí, nguyên liệu, lương thực... Hoa Kỳ được coi là lực lượng có vai trò quan trọng nhất trong chiến thắng của phe Đồng minh tại Châu Á và Thái Bình Dương.


Chiến tranh thế giới thứ hai là một cuộc xung đột vũ trang lớn nhất lịch sử. Không cuộc xung đột nào trước đó hay sau đó bao gồm số nước tham gia nhiều hơn, ảnh hưởng diện tích đất lớn hơn, hay giết nhiều mạng người và phá hoại nhiều hơn. Tuy nhiên, sự lớn lao của cuộc chiến này chỉ là một trong nhiều khía cạnh nổi bật nhất của nó. Một số khía cạnh khác đáng được chú ý là:


  • Ảnh hưởng thế giới lâu dài: Hầu hết các quốc gia đã theo phía này hay phía kia trong chiến tranh. Một số quốc gia theo cả hai phía vào các thời điểm khác nhau. Mọi lục địa có người ở, trừ Nam Mỹ, đều có chiến sự. Ngay cả các nước trung lập cũng bị ảnh hưởng sâu sắc trong chiến tranh và sau chiến tranh.

  • Phát triển kỹ thuật: Trong nhiều lĩnh vực kỹ thuật, sự tiến triển rất nhanh chóng vì chiến trường có nhu cầu cải tiến kỹ thuật. Diễn tiến này có rất rõ trong các lĩnh vực kỹ thuật quân sự, từ máy bay đến xe cộ và máy tính.

  • Bom nguyên tử: Chiến tranh thế giới thứ hai đã dẫn đến một cuộc cạnh tranh giữa một số nước để khai thác năng lượng nguyên tử và phát triển vũ khí hạt nhân. Lần đầu tiên, con người nắm được trong tay mình một thứ vũ khí có thể hủy diệt cả nhân loại và thế giới. Nước Mỹ thắng cuộc trong cạnh tranh này và đã sử dụng vũ khí nguyên tử lần đầu tiên trên thế giới để tạo ra ưu thế trong việc phân chia thế giới sau chiến tranh. Nhưng sau khi Liên Xô cũng sở hữu vũ khí hạt nhân, loài người lại đứng trước một nguy cơ tiềm ẩn cực kỳ đáng sợ bởi hai siêu cường này luôn nằm trong sự đối đầu với nhau.

  • Chiến tranh tổng lực: Chiến tranh này đã diễn ra theo cách thức chiến tranh tổng lực như Thế chiến I (strategic warfare). Chiến tranh này không những chỉ là để đánh bại quân địch và xâm chiếm lãnh thổ, mà còn phải tấn công thẳng vào các khu dân cư và công nghiệp để phá hủy khả năng sản xuất và ý chí của đối phương.

  • Kháng cự của người dân: Chiến tranh du kích không phải mới, nhưng trong hầu hết những nước bị quân địch (đặc biệt là Đức và Nhật) chiếm giữ, nhiều cuộc nổi dậy kháng chiến đã nổ ra. Mặc dù các phong trào này thường không tự giải phóng được đất nước, họ cũng đã làm quân chiếm đóng phải hao tổn công sức, và lãnh thổ không bao giờ bị chiếm giữ toàn bộ. Việc này đã chứng minh rằng, việc chinh phục và lôi kéo một dân tộc đối nghịch bằng vũ lực là một chuyện không dễ dàng.



  1. ^ Sommerville, Donald (14 tháng 12 năm 2008). The Complete Illustrated History of World War Two: An Authoritative Account of the Deadliest Conflict in Human History with Analysis of Decisive Encounters and Landmark Engagements. Lorenz Books. tr. 5. ISBN 0754818985. 

  2. ^ The Second World War was really an extension of the first-WWI vs WWII

  3. ^ Wojciech Materski and Tomasz Szarota. Polska 1939–1945. Straty osobowe i ofiary represji pod dwiema okupacjami. Institute of National Remembrance(IPN) Warszawa 2009 ISBN 978-83-7629-067-6, p. 32

  4. ^ Anthony Sutton. Wall Street and the rise of Hitler. New Rochelle. New York. Arlington House. 1975

  5. ^ “How Bush's grandfather helped Hitler's rise to power”. the Guardian. Truy cập 9 tháng 2 năm 2018. 

  6. ^ Schuker, (1997), p. 237.

  7. ^ Weinberg, Gerhard L. (2005). A World at Arms: A Global History of World War II (2nd ed.), pp 259. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-85316-3

  8. ^ The United States’ Policy toward Germany 1933--1938, Jian Xu, Journal of Politic and Law, Vol. 1, No. 2, December 2008

  9. ^ The History of Wall Street’s Unspoken Relationship to Nazi Germany: Dragon Teeth to Be Planted All Over Europe Again, Yuriy Rubtsov, Global Research, September 01, 2014

  10. ^ a ă Hồ sơ mật: Phương Tây nhiệt tình hỗ trợ Hitler tiêu diệt Liên Xô, 21/10/2015, ĐÀI TIẾNG NÓI VIỆT NAM

  11. ^ Cienciala (1967), p. 11

  12. ^ Tomasz Torbus, Nelles Guide Poland, Hunter Publishing, Inc, 1999, ISBN 3-88618-088-3 Google Books, p.25

  13. ^ George H. Quester, Nuclear Monopoly, Transaction Publishers, 2000, ISBN 0-7658-0022-5, Google Books, p.27. Note that author gives a source: Richard M. Watt, Bitter Glory, Simon and Schuster, 1979

  14. ^ Urbanowski, op.cit., Pages 539-540

  15. ^ Victor Rothwell, Origins of the Second World War, Manchester University Press, 2001, ISBN 0-7190-5958-5, Google Print, p.92

  16. ^ Kazimierz Maciej Smogorzewski. “Józef Piłsudski”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2006. 

  17. ^ Zahradnik 1992, 86.

  18. ^ Watt 1998, 386.

  19. ^ Podmore p7

  20. ^ Alpert (1994). pp. 14–15.

  21. ^ Thomas (1961). p. 338.

  22. ^ Tierney, D (2004). “Franklin D. Roosevelt and Covert Aid to the Loyalists in the Spanish Civil War, 1936-39”. Journal of Contemporary History 39 (3): 299–313. JSTOR 3180730. 

  23. ^ Beevor, p.138

  24. ^ Thomas, Hugh (1961). The Spanish Civil War (1 ed.), pp 634. London: Eyre and Spottiswoode

  25. ^ Payne (2004). pp. 156–157.

  26. ^ Beevor (2006). pp. 152–153.



  27. ^ Hạ nghị viện Anh. Tư liệu những cuộc tranh luận tại nghị viện ngày 22 tháng 2. London. 1938. trang 227, 332.

  28. ^ Bộ ngoại giao Liên Xô. Tư liệu văn kiện thời kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhà xuất bản Ngoại văn. Moskva. 1948. trang 92.

  29. ^ The History of Germany, Eleanor L. Turk, pp 123, Greenwood Publishing Group, 1999

  30. ^ Adolf Hitler, Max Domarus. The Essential Hitler: Speeches and Commentary. Bolchazy-Carducci Publishers, 2007. ISBN 9780865166271. Pp. 627.

  31. ^ The British Political Elite and the Soviet Union, pp 31-40, Louise Grace Shaw, Routledge, Jun 17, 2013


  32. ^ Henry Payner. Churchill, Roosevelt, Stalin - Cuộc chiến tranh mà họ tiến hành và nền hòa bình mà họ tìm kiếm. London. 1957. trang 4.

  33. ^ Feiling Keith, The Life of Neville Chamberlain, pp. 375, London and New York: The Macmillan Company. 1946

  34. ^ The Origins of the Second World War: An International Perspective, pp 483, Frank McDonough, Bloomsbury Publishing, Sep 22, 2011

  35. ^ a ă Lê văn Quang, Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1917 đến 1945, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003, trang 157

  36. ^ Crampton, R. J. (1997). Eastern Europe in the Twentieth Century and After. Routledge. tr. 105. ISBN 0-415-16422-2. 

  37. ^ http://www.booksite.ru/fulltext/1/001/008/007/174.htm

  38. ^ Karski, J. The Great Powers and Poland, University Press, 1985, p.342



  39. ^ Jeffrey Herf. The Jewish Enemy: Nazi Propaganda during World War II and the Holocaust. pp 97 - 98, Cambridge: Belknap Press of Harvard University Press. 2006

  40. ^ Resis 2000, tr. 35

  41. ^ Moss, Walter, A History of Russia: Since 1855, Anthem Press, 2005, ISBN 1-84331-034-1, page 283







  42. ^ Cienciala, Anna M (2006) [2004]. “The Coming of the War and Eastern Europe in World War II” (lecture notes). University of Kansas. .

  43. ^ Rieber, p 29.

  44. ^ Hồ sơ XV-tòa án Nuremberg-trang 350

  45. ^ Beevor 2012, tr. 32

  46. ^ Murray & Millett 2001, tr. 57–63.



  47. ^ "92 Squadron - Geoffrey Wellum." Battle of Britain Memorial Flight. Cập nhật ngày 17 tháng 11 năm 2010.

  48. ^ Hans Ring, "Die Luftschlacht über England 1940", Luftfahrt international Ausgabe 12, 1980 p.580

  49. ^ https://www.newhistorian.com/roosevelt-announces-destroyers-for-bases-agreement/4742/


  50. ^ “National Affairs: Anniversary Remembrance”. TIME.com. Truy cập 9 tháng 2 năm 2018. 


  51. ^ a ă Axell 2006, tr. 121

  52. ^ 8 Things You Should Know About WWII’s Eastern Front, Evan Andrews, May 27, 2014, history.com

  53. ^ Michael Jabara Carley. Montréal University (Canada). International New York Times, 06/05/2015

  54. ^ Glantz 2002, tr. 327–66.

  55. ^ a ă “Sửa lại lịch sử khiến cho tương lai trở nên mong manh”. Báo Đất Việt. Truy cập 16 tháng 5 năm 2015. 

  56. ^ G. I. Krivosheev. Soviet Casualties and Combat Losses. Greenhill 1997 ISBN 1-85367-280-7


  57. ^ Hastings 1979

  58. ^ a ă Garrett 1993

  59. ^ Walden, Geoff (tháng 1 2007). “Third Reich in Ruins:Schweinfurt”. www.thirdreichruins.com. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2007. 


  60. ^ http://spartacus-educational.com/RUSsecond.htm




  61. ^ Lê Vinh Quốc & Huỳnh Văn Tòng 1991, tr. 75

  62. ^ a ă Lê Vinh Quốc & Huỳnh Văn Tòng 1991, tr. 85

  63. ^ “Australia Declares War on Japan”. Inter-Allied Review. 15 tháng 12 năm 1941. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2009. 

  64. ^ “The Kingdom of the Netherlands Declares War with Japan”. (purportedly) Inter-Allied Review. 15 tháng 12 năm 1941. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2009. 

  65. ^ Từ Thiên Ân, Hứa Bình & Vương Hồng Sinh 2002, tr. 751




  66. ^ Hoàng Anh Thái (chủ biên) 2006, tr. 165

  67. ^ a ă Abraham Rothberg, Pierce G.Fredericks & Michael O'Keefe 2009, tr. 234





  68. ^ Lê Vinh Quốc & Huỳnh Văn Tòng 1991, tr. 190

  69. ^ Frank Richard 1990, tr. 598–618; và Lundstrom John B. 2005 (bản mới), tr. 456. Có 85 lính Australia bị giết trong trận chiến đảo Savo. Số người chết bao gồm 1.768 (lục quân), 4.911 (hải quân) và 420 (không lực). Bốn thành viên đội bay bị Nhật bắt sống trong Trận chiến quần đảo Santa Cruz đã sống sót đến hết chiến tranh(Clemens Martin 2004 (tái bản), tr. 295)

  70. ^ Hoàng Anh Thái (chủ biên) 2006, tr. 167

  71. ^ Thompson & Randall 2008, tr. 164.

  72. ^ Cook & Bewes 1997, tr. 305

  73. ^ Drea 2003, tr. 57.

  74. ^ “Battle of Okinawa: The Bloodiest Battle of the Pacific War”. History Net: Where History Comes Alive - World & US History Online. Truy cập 13 tháng 2 năm 2015. 

  75. ^ Geoffrey Parker 2006, tr. 429

  76. ^ Иноуэ К., Оконоги С., Судзуки С. 1955, tr. 264

  77. ^ Nhiều tác giả 2004, tr. 290

  78. ^ “Text of Hirohito's Radio Rescript”, The New York Times, 15 tháng 8 năm 1945: 3, truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2015 

  79. ^ Hubertus Knabe, Tag der Befreiung? Das Kriegsende in Ostdeutschland (Ngày giải phóng? Kết thúc chiến tranh ở Đông Đức); mua sách này trên Amazon

  80. ^ Antony James Beevor, Berlin: The Downfall 1945 (Ngày tàn của Berlin năm 1945), trang 28; mua sách này trên Amazon

  81. ^ Báo The Guardian trích sách của Antony James Beevor, ngày 1 tháng 5 năm 2002

  82. ^ Alfred-Maurice de Zayas, Die Anglo-Amerikaner und die Vertreibung der Deutschen, Tr. 87, Ullstein, 1988. Để kiểm chứng, có thể mua sách này trên Amazon

  83. ^ Hanna Schissler The Miracle Years: A Cultural History of West Germany, 1949–1968 [1]

  84. ^ Franz Wilhelm Seidler và Alfred-Maurice de Zayas, Kriegsverbrechen in Europa und im Nahen Osten im 20. Jahrhundert (Tội ác chiến tranh ở châu Âu, Đông Đức trong thế kỷ 20); mua sách này trên PreisTrend hoặc trên Amazon

  85. ^ Theodor Schieder, Dokumentation der Vertreibung der Deutschen aus Ost-Mitteleuropa (Tư liệu về việc người Đức bị bắt phải di cư khỏi miền đông Trung Âu), nhà xuất bản Deutscher Taschenbuch Verlag (DTV), München, Đức, năm 2004; mua sách trên website của DTV

  86. ^ William Hitchcock, The Struggle for Europe: The Turbulent History of a Divided Continent, 1945-2002 (Cuộc chiến giành châu Âu: Lịch sử hỗn loạn của một lục địa bị chia cắt, 1945-2002); mua sách này trên Amazon

  87. ^ Helke Sander và Barbara Johr, phim tư liệu BeFreier und Befreite. Krieg, Vergewaltigung, Kinder (Những kẻ đem lại tự do lại cướp mất tự do. Chiến tranh, hãm hiếp, và trẻ con); mua phim tư liệu này trên Amazon

  88. ^ Bird, Nicky (tháng 10 năm 2002). “Berlin: The Downfall 1945 by Antony Beevor”. International Affairs (Royal Institute of International Affairs) 78 (4): 914–916. 


  89. ^ “Н. Мендкович. Кто «изнасиловал Германию»? (часть 1). Актуальная история”. Truy cập 14 tháng 2 năm 2015. 

  90. ^ Wolfgang Leonhard, Child of the Revolution,Pathfinder Press, 1979, ISBN 0-906133-26-2

  91. ^ Norman M. Naimark. The Russians in Germany: A History of the Soviet Zone of Occupation, 1945–1949. Harvard University Press, 1995. ISBN 0-674-78405-7

  92. ^ Бивор, Энтони. Падение Берлина. 1945. — М.: АСТ; Транзиткнига, 2004. Bản gốc: Anthony Beevor. Berlin. The Downfall 1945. — London. Viking, 2002. (Anthony Beevor. Berlin sụp đổ - 1945. AST; Tranzitkniga. Moskva. 2004. Chương 27: Nạn nhân của chiến thắng)

  93. ^ НАСИЛИЕ НАД ФАКТАМИ Турченко Сергей, №, 21 Июля 2005г

  94. ^ Summers, Chris (29 tháng 4 năm 2002). “Red Army rapists exposed”. BBC News Online. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2010. 

  95. ^ Gareev, Makhmut; Tretiak, Ivan; Rzheshevsky, Oleg (21 tháng 7 năm 2005). Насилие над фактами [Abuse of Facts]. Trud (bằng tiếng Nga). Phỏng vấn bởi Sergey Turchenko. 

  96. ^ Дюков А. Р. За что сражались советские люди. «Русский НЕ должен умереть». — М.: Яуза, Эксмо, 2007. — 576 с. — (Война и мы). isbn 978–5–699–22722–8. Тираж 5000 экз.

  97. ^ Taken by Force: Rape and American GIs in Europe during World War II. J Robert Lilly. ISBN 978-0-230-50647-3 p.12

  98. ^ Tom Mintier, "Photos document brutality in Shanghai" (CNN, ngày 23 tháng 9 năm 1996. Access date: ngày 25 tháng 8 năm 2007.

  99. ^ http://listserv.acsu.buffalo.edu/cgi-bin/wa?A2=ind9705&L=twatch-l&D=1&O=D&F=P&P=1025 Lưu trữ 15 July 2013 tại Wayback Machine. Italian women win cash for wartime rapes

  100. ^ Volker Koop: Besetzt: französische Besatzungspolitik in Deutschland, Berlin 2005

  101. ^ “1952: Il caso delle "marocchinate" al Parlamento”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2008. 

  102. ^ Michael Haynes, Counting Soviet Deaths in the Great Patriotic War: a Note, Europe Asia Studies Vol.55, No. 2, 2003, 300–309

  103. ^ Lịch sử quân sự Ý trong Thế chiến 2, bản wikipedia tiếng Anh

  104. ^ Werner Gruhl, Imperial Japan's World War Two, 1931–1945 Transaction 2007 ISBN 978-0-7658-0352-8 (Werner Gruhl is former chief of NASA's Cost and Economic Analysis Branch with a lifetime interest in the study of the First and Second World Wars.

  105. ^ Hans-Adolf Jacobsen: 1939–1945, Der Zweite Weltkrieg in Chronik und Dokumenten. Darmstadt 1961, p. 568. (German Language)

  106. ^ Roger Munting, “Lend-Lease and the Soviet War Effort.” Journal of Contemporary History 19, no. 3 (1984): pp. 495-510. Accessed November 1, 2011.

  107. ^ Roger Munting, The Economic Development of the U.S.S.R (New York: St. Martin’s Press, 1984), 118

  108. ^ Valeri Yarmenko, phó tiến sĩ sử học, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Lịch sử quân sự Bộ Quốc phòng Nga. Báo điện tử Utro.ru ngày 27-4-2005

  109. ^ Weeks 2004, tr. 146

  110. ^ “Russia and Serbia, A Century of Progress in Rail Transport”. A Look at Railways History in 1935 and Before. Open Publishing. Tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2016. 

  111. ^ a ă â Russia's Life-Saver: Lend-Lease Aid to the U.S.S.R. in World War II, pp 9, Albert L. Weeks, Lexington Books, Jan 29, 2004

  112. ^ Red Army Handbook, 1939-45, Steve Zaloga - p.215

  113. ^ Weeks 2004, tr. 107

  114. ^ Parker, Dana T. Building Victory: Aircraft Manufacturing in the Los Angeles Area in World War II, p. 8, Cypress, CA, 2013. ISBN 978-0-9897906-0-4

  115. ^ "One War Won." Time Magazine, 13 December 1943.

  116. ^ Albert L. Weeks The Other Side of Coexistence: An Analysis of Russian Foreign Policy, (New York, Pittman Publishing Corporation, 1974), p.94

  117. ^ Khrushchev, Nikita (2005). Memoirs of Nikita Khrushchev: Commissar, 1918-1945, Volume 1. Sergei Khrushchev. Pennsylvania State Univ Pr. tr. 675–676. ISBN 978-0271058535. 

  118. ^ M. Harrison (1993). The Soviet Economy and relation to the United States and Britain, 1941-1945. Department of Economics. P47

  119. ^ Henderson, Barney; agencies (2 tháng 2 năm 2012). “Treasure hunters 'find $3 billion in platinum on sunken WW2 British ship'”. The Daily Telegraph (London). Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2017. 

  120. ^ http://baodatviet.vn/the-gioi/ho-so/su-that-my-da-giup-lien-xo-nhu-the-nao-3311777/?paged=4

  121. ^ Doberin 1986, tr. 99

  122. ^ Lebra, Joyce C. Japan's Greater East Asia Co-Prosperity Sphere in World War II: Selected Readings and Documents. New York: Oxford University Press, 1975, trang 157, 158, 160


Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]


  • Churchill, Winston (1948-53), The Second World War, 6 vols.

  • Gilbert, Martin (1995) Second World War, Phoenix, ISBN 1-85799-346-2

  • Keegan, John (1989) The Second World War

  • Liddel Hart, Sir Basil (1970), History of the Second World War Cassel & Co; Pan Books,1973, London

  • Murray, Williamson và Millett, Allan R. (2000) A War to Be Won: Fighting the Second World War ISBN 0-674-00163-X

  • Overy, Richard, Why the Allies Won, Pimlico, 1995. ISBN 0-7126-7453-5

  • Weinberg, Gerhard L., A World at Arms: A Global History of World War II (1994) ISBN 0-521-44317-2